Theo ông, đưa AI vào bậc tiểu học là xu thế tất yếu, nhưng phải được thực hiện đúng cách, mục tiêu rõ ràng, công cụ an toàn và triển khai theo lộ trình vững chắc, thí điểm trước khi nhân rộng để mọi học sinh đều có cơ hội tiếp cận công nghệ tương lai một cách công bằng.
Thống kê cho thấy khoảng 15% trường học tại các đô thị lớn đã đưa AI vào giảng dạy, trong đó TP.HCM dẫn đầu với khoảng 30%, tiếp đến là Hà Nội khoảng 25%. AI hiện hỗ trợ mạnh ở các môn Toán, Tiếng Anh, Khoa học và Tin học. Trái lại, tại nhiều khu vực miền núi, việc ứng dụng công nghệ này vẫn còn là “bài toán khó” về hạ tầng và điều kiện tiếp cận, nhất là khi Bộ GD&ĐT đặt mục tiêu đến năm 2035, AI sẽ trở thành công cụ phổ biến với mỗi học sinh, giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục. Câu chuyện ở Trường PTDTBT Tiểu học Dào San (Lai Châu) là một ví dụ điển hình.
Hiệu trưởng Phạm Thị Xuân cho biết, giáo viên trong trường đã tiếp cận ứng dụng AI từ vài năm nay và năm học này lần đầu tiên chính thức triển khai vào giảng dạy. Đội ngũ thầy cô chủ động học hỏi, tập huấn nên đáp ứng khá tốt yêu cầu, chỉ một bộ phận nhỏ giáo viên lớn tuổi còn gặp lúng túng khi tiếp cận công nghệ mới.
Thế nhưng, khó khăn lớn nhất lại thuộc về học sinh, những em nhỏ nơi lưng chừng núi dốc, nhiều em còn đang loay hoay với tiếng Việt là ngôn ngữ thứ hai.
“AI giúp các con dễ hiểu bài hơn, thu hút hơn. Nhiều em lớp 1, lớp 2 trước đây rất ngại giao tiếp thì nay đã dạn dĩ hơn nhờ bài học trực quan”, cô Xuân chia sẻ.
Tuy vậy, việc ứng dụng chỉ có thể diễn ra trong khung trường học. Về nhà, khả năng tiếp tục học gần như bằng 0: không máy tính, không mạng ổn định, không không gian học tập.
Ngay trong trường, thiết bị cũng thiếu trầm trọng: điểm trung tâm chỉ có 25 máy tính trong khi lớp học đông tới gần 40 em. Ở những điểm trường xa hơn, chỉ 18 máy cho cả trăm học sinh. Ai cũng hiểu lý tưởng “mỗi học sinh một máy tính” vẫn là điều xa vời.
Thế nhưng, ngay cả khi thiếu thốn, sự háo hức của thầy trò vẫn rất rõ rệt: lần đầu tiên các em được bước vào thế giới của công nghệ mới, được học “như trong phim”.
Ở phía biên giới Tây Ninh, thách thức còn chồng thêm thách thức. Tại điểm trường lẻ của Trường Tiểu học Tân Hiệp (xã Tân Bình), cô Bùi Ái Mai kể: Học sinh ít nên lớp ghép là chuyện thường, hai độ tuổi, một chương trình, một giáo viên.
“Riêng việc phân hóa nội dung đã khó, giờ muốn đưa AI vào thì gần như không có công cụ hỗ trợ,” cô Mai chia sẻ.
Điểm trường chưa có máy chiếu, tivi hay phòng tin học nên khi cần trải nghiệm AI, cả lớp chỉ có thể xoay quanh chiếc laptop cá nhân của giáo viên. Nhưng cô Mai không bỏ cuộc: “Nếu trẻ em thành phố được tiếp cận công nghệ sớm, trẻ em vùng biên cũng xứng đáng như vậy”.
Theo ông Thắng, AI trong giáo dục là xu thế không thể chậm trễ. Nhưng nếu triển khai thiếu hạ tầng, có thể dẫn đến một hình thức bất bình đẳng mới: nơi có điều kiện thì bứt phá, nơi khó khăn lại tụt lại sâu hơn.
Bởi vậy, ông nhấn mạnh: Thay vì chỉ tập trung đưa thiết bị đến học sinh, cần ưu tiên trang bị năng lực sử dụng AI cho giáo viên. Họ chính là người định hướng các em sử dụng công nghệ đúng mục đích, sáng tạo, nhân văn.
Bộ GD&ĐT cũng đã xác định một loạt giải pháp để AI không trở thành cuộc chơi “hai tốc độ”: hoàn thiện chính sách, tích hợp nội dung AI phù hợp từng cấp học, tăng cường chuyển đổi số cho mọi nhà trường…
Nghị quyết số 71-NQ/TW của Bộ Chính trị cũng đã nêu rất rõ, chuyển đổi số toàn diện phổ cập và ứng dụng mạnh mẽ công nghệ và trí tuệ nhân tạo trong giáo dục và đào tạo, trong đó khẳng định việc phải nâng cao chuẩn năng lực số và trí tuệ nhân tạo cho đội ngũ nhà giáo và người học tất cả các cấp học, và đưa nội dung này vào trong chương trình giáo dục ở tất cả cấp học.