GD&TĐ - Giữa muôn vàn loại áo chống nắng hiện đại, tưởng chừng chiếc áo tơi mộc mạc đã lùi vào dĩ vãng.
Thế nhưng, ở một làng quê Hà Tĩnh, nghề chằm áo tơi vẫn lặng lẽ tồn tại như một phần ký ức gắn liền với đất và người vùng nắng gió.
Nghề xưa chưa cũ
Từ xa xưa, chiếc áo tơi đã là người bạn thân thiết của nông dân Hà Tĩnh. Làm từ những vật liệu thuần tự nhiên như lá cọ, dây mây, giang non…, áo tơi không chỉ có tác dụng che nắng, che mưa, mà còn mang theo dấu ấn văn hóa đặc trưng, gắn bó sâu sắc với đồng đất, nếp sống làng quê.
Ở thôn Yên Lạc (xã Xuân Lộc), nghề chằm áo tơi đã tồn tại hàng trăm năm, được truyền qua nhiều thế hệ. Dù xã hội đổi thay, nhiều nghề truyền thống dần mai một, thì ở nơi đây, tiếng lách tách của những bàn tay khéo léo chằm từng lớp lá vẫn đều đặn vang lên mỗi ngày.
Đã có thời, Yên Lạc nổi tiếng khắp vùng vì cả làng sống bằng nghề chằm áo tơi. Những năm 60 - 70 của thế kỷ trước, dọc các con đường làng đâu đâu cũng thấy chồng lá cọ, bó mây, tiếng người già trẻ nhỏ rôm rả bên những chiếc tơi đang dở dang. Áo tơi Yên Lạc từng theo đôi quang gánh của người dân len lỏi khắp các chợ quê đến tận chợ huyện, chợ tỉnh. Thương lái cũng từng tấp nập về làng thu mua.
“Ngày đó, làm tơi là nghề chính nuôi sống cả làng. Mỗi sáng, chúng tôi mang vài cái áo tơi ra chợ Lối (Xuân Lộc), chợ Gát (Việt Xuyên), chợ Huyện (Đồng Lộc)… bán lấy tiền hoặc đổi lấy gạo, cá khô, nước mắm”, bà Nguyễn Thị Cảnh (70 tuổi) nhớ lại.
Đơn giản, bền bỉ và rẻ tiền - chiếc áo tơi từng là “áo mưa, áo nắng” của người nông dân miền Trung suốt nhiều thế kỷ. Mỗi chiếc tơi là kết quả của hàng chục giờ lao động thủ công tỉ mẩn: Từ chọn lá, vuốt lá, bện dây đến chằm lá theo lớp. Trong một gia đình, 4 - 5 người cùng ngồi làm, vừa góp công vừa truyền nghề. Trẻ con lớn lên cũng biết vuốt lá, bện triêng từ thuở chưa biết đánh vần.
Áo tơi có hai loại: Tơi mưa và tơi nắng. Tơi mưa làm từ lá cọ dày, có độ dai cao để chống mưa to, gió lớn. Tơi nắng thì làm bằng lá cọ khô, nhẹ, thoáng, rất phù hợp với thời tiết khắc nghiệt miền Trung vào mùa Hè. Ngày nay, dù các loại áo mưa, áo chống nắng hiện đại đã phổ biến, nhiều người dân vẫn ưa dùng áo tơi vì độ bền, sự thoáng mát tự nhiên và giá cả phải chăng.
Lá tơi - nguyên liệu chính để làm áo tơi Yên Lạc.
Một số công đoạn thủ công làm ra chiếc áo tơi Yên Lạc.
Tỉ mỉ trong từng công đoạn
Ông Nguyễn Đăng Thường (85 tuổi), một “lão nghệ nhân” của làng, cho biết mùa chính để làm áo tơi là từ tháng 2 đến tháng 7 âm lịch - khi lá cọ già đạt độ dai vừa đủ. “Loại lá cọ dùng làm áo tơi phải vào tận rừng sâu mới có… Người dân gọi đó là lá tơi để phân biệt với loại lá cọ trồng quanh nhà. Lá hái về phải phơi cho khô rồi vuốt mềm ra. Dây mây, giang cũng phải được đẽo, chẻ, phơi kỹ rồi mới bện lại thành triêng - sợi dây giữ cho áo không bung khi gặp gió to, mưa lớn”, ông Thường chia sẻ.
Làm một chiếc áo tơi là cả một quá trình đòi hỏi sự kiên nhẫn. Từ khâu chọn loại lá bánh tẻ - không non quá cũng không già quá - đến việc phơi đúng nắng để giữ được độ dẻo dai, không bị giòn gãy. Lá khô được bó lại, vuốt mềm rồi mới đưa vào chằm. Trong mỗi gia đình, thường sẽ có một người đảm nhận công đoạn chằm chính, những người còn lại phụ vuốt lá, bện dây.
Một chiếc áo tơi cần khoảng 180 - 200 tàu lá, được xếp lớp so le và khâu chặt tay bằng dây mây hoặc dây giang. Người chằm phải ngồi đúng tư thế, vuốt lá đều tay rồi tỉ mẩn dùng dùi xoi lỗ, xỏ dây, rút đều từng mũi như thêu tranh. “Để tơi không bị rách hay bung lớp, người thợ phải nắm được thế chằm - từ hướng lá, độ chồng đến độ siết dây. Sai một mũi là phải tháo lại từ đầu”, ông Thường cho biết.
Bà Đặng Thị Hiền (70 tuổi, thôn Yên Lạc), một trong những người gắn bó với nghề chằm tơi từ thuở thiếu nữ, chia sẻ: “Một chiếc tơi nắng chỉ khoảng 70 nghìn đồng nhưng mặc bền được đến ba mùa Hè. Mùa nắng này, tôi vẫn mặc áo tơi đi làm đồng, đỡ nóng lắm”, bà vừa nói vừa thoăn thoắt vuốt từng tàu lá. Những năm còn trẻ, bà có thể làm 5 - 6 chiếc mỗi ngày. Giờ đã cao tuổi, bà vẫn cố làm 3 - 4 cái để giữ nghề và có thêm thu nhập.
Trong những mái nhà nhỏ của Yên Lạc, nghề chằm tơi không chỉ là kế sinh nhai, mà còn là một phần ký ức gia đình. Bà Đặng Thị Chất - giáo viên nghỉ hưu - nhớ lại: “Hồi tôi mới về làm dâu ở Yên Lạc, chiều đi dạy về là lại ngồi phụ mẹ chồng chằm tơi. Thời gian đầu chỉ chuốt lá, sau học dần rồi biết chằm hoàn chỉnh. Nhờ nghề này mà gia đình tôi có thêm thu nhập, nuôi con cái ăn học đến nơi đến chốn”.
Chiếc áo tơi Yên Lạc được chằm nhiều lớp lá, đảm bảo mát khi nắng và che chắn nước khi mưa.
Từ mái nhà nhỏ vươn ra thị trường lớn
Thôn Yên Lạc hiện có 188 hộ dân, trong đó khoảng 2/3 hộ vẫn còn giữ nghề chằm tơi. Tuy vậy, số hộ làm nghề thường xuyên chỉ còn khoảng 15 - 20 hộ. Những cái tên như ông Nguyễn Đăng Đông - bà Nguyễn Thị An hay bà Nguyễn Thị Bàng vẫn là chỗ dựa vững chắc của làng nghề.
Năm 2022, Tổ hợp tác chằm tơi Yên Lạc được thành lập với 25 thành viên. Bà Trần Thị Lệ Thu - Chủ tịch tổ hợp tác - chia sẻ: “Chúng tôi muốn tập hợp những người còn tâm huyết, cùng nhau nâng cao chất lượng sản phẩm, tìm đầu ra ổn định và quảng bá áo tơi Yên Lạc đến với khách hàng xa hơn, rộng hơn”.
Sự ra đời của tổ hợp tác đã mang lại hiệu quả rõ rệt. Vào mùa cao điểm, các hộ chuyên làm tơi có thể đạt thu nhập từ 16 - 17 triệu đồng/tháng - con số không nhỏ đối với một vùng quê nông nghiệp. Quan trọng hơn, điều này giúp người dân yên tâm gắn bó với nghề, con cháu thấy được giá trị văn hóa và kinh tế mà nghề truyền thống mang lại.
Nhờ hoạt động tích cực của tổ hợp tác, áo tơi Yên Lạc đã vượt ra khỏi ranh giới làng quê. Nhiều đoàn du lịch, công ty lữ hành tìm đến đặt hàng với số lượng lớn để làm quà tặng hoặc phục vụ các trải nghiệm văn hóa. Hình ảnh chiếc áo tơi - mộc mạc, thân thiện, gần gũi - trở thành một biểu tượng văn hóa đậm chất miền Trung, khiến du khách thích thú và trân trọng.
Bà Đặng Thị Hiền (70 tuổi) - một trong 20 hộ dân còn giữ nghề tại làng.
Dẫu nhịp nghề nay đã lặng hơn xưa, nhưng những đơn hàng lớn vẫn là điểm sáng trong mùa chằm. Như tháng 4 vừa rồi, gia đình bà Đặng Thị Hiền - người thợ lão luyện với hơn nửa thế kỷ gắn bó nghề - đã nhận được đơn hàng gần 200 chiếc áo tơi gửi đi Thái Bình (địa phương trước sáp nhập đơn vị hành chính). Những đơn hàng như vậy không còn nhiều, nhưng là động lực quý giá, chứng tỏ áo tơi Yên Lạc vẫn có vị thế, không chỉ trong vùng mà còn lan tỏa đến các tỉnh lân cận.
Ngày nay, thị trường ngập tràn các loại áo chống nắng đủ kiểu dáng, chất liệu - từ vải dù, chống tia UV đến áo quạt gió, làm mát bằng pin sạc… Thế nhưng, chiếc áo tơi giản dị làm từ lá cọ vẫn âm thầm giữ vị trí riêng. Với người dân Yên Lạc, chiếc áo tơi không chỉ là vật dụng che mưa nắng, mà còn là hơi thở làng nghề, là sợi dây kết nối bao thế hệ với đất quê.
Chúng tôi muốn không chỉ giữ nghề, mà còn phát triển nghề. Tổ hợp tác ra đời để gắn kết các hộ, cùng nhau nâng cao chất lượng sản phẩm, tìm đầu ra ổn định và quảng bá áo tơi Yên Lạc đến với khách hàng xa hơn. Trong thời gian tới, chúng tôi cũng mong sẽ có thêm những sự hỗ trợ - không chỉ về nguồn vốn mà cả trong việc kết nối thị trường - để làng nghề không bị mai một. Bà Trần Thị Lê Thu, Chủ tịch Tổ hợp tác chằm tơi Yên Lạc
Trên cánh đồng mùa gặt tại Hà Tĩnh, vẫn thấp thoáng hình ảnh áo tơi Yên Lạc giữa thời hiện đại.
Thế nhưng, ở một làng quê Hà Tĩnh, nghề chằm áo tơi vẫn lặng lẽ tồn tại như một phần ký ức gắn liền với đất và người vùng nắng gió.
Nghề xưa chưa cũ
Từ xa xưa, chiếc áo tơi đã là người bạn thân thiết của nông dân Hà Tĩnh. Làm từ những vật liệu thuần tự nhiên như lá cọ, dây mây, giang non…, áo tơi không chỉ có tác dụng che nắng, che mưa, mà còn mang theo dấu ấn văn hóa đặc trưng, gắn bó sâu sắc với đồng đất, nếp sống làng quê.
Ở thôn Yên Lạc (xã Xuân Lộc), nghề chằm áo tơi đã tồn tại hàng trăm năm, được truyền qua nhiều thế hệ. Dù xã hội đổi thay, nhiều nghề truyền thống dần mai một, thì ở nơi đây, tiếng lách tách của những bàn tay khéo léo chằm từng lớp lá vẫn đều đặn vang lên mỗi ngày.
Đã có thời, Yên Lạc nổi tiếng khắp vùng vì cả làng sống bằng nghề chằm áo tơi. Những năm 60 - 70 của thế kỷ trước, dọc các con đường làng đâu đâu cũng thấy chồng lá cọ, bó mây, tiếng người già trẻ nhỏ rôm rả bên những chiếc tơi đang dở dang. Áo tơi Yên Lạc từng theo đôi quang gánh của người dân len lỏi khắp các chợ quê đến tận chợ huyện, chợ tỉnh. Thương lái cũng từng tấp nập về làng thu mua.
“Ngày đó, làm tơi là nghề chính nuôi sống cả làng. Mỗi sáng, chúng tôi mang vài cái áo tơi ra chợ Lối (Xuân Lộc), chợ Gát (Việt Xuyên), chợ Huyện (Đồng Lộc)… bán lấy tiền hoặc đổi lấy gạo, cá khô, nước mắm”, bà Nguyễn Thị Cảnh (70 tuổi) nhớ lại.
Đơn giản, bền bỉ và rẻ tiền - chiếc áo tơi từng là “áo mưa, áo nắng” của người nông dân miền Trung suốt nhiều thế kỷ. Mỗi chiếc tơi là kết quả của hàng chục giờ lao động thủ công tỉ mẩn: Từ chọn lá, vuốt lá, bện dây đến chằm lá theo lớp. Trong một gia đình, 4 - 5 người cùng ngồi làm, vừa góp công vừa truyền nghề. Trẻ con lớn lên cũng biết vuốt lá, bện triêng từ thuở chưa biết đánh vần.
Áo tơi có hai loại: Tơi mưa và tơi nắng. Tơi mưa làm từ lá cọ dày, có độ dai cao để chống mưa to, gió lớn. Tơi nắng thì làm bằng lá cọ khô, nhẹ, thoáng, rất phù hợp với thời tiết khắc nghiệt miền Trung vào mùa Hè. Ngày nay, dù các loại áo mưa, áo chống nắng hiện đại đã phổ biến, nhiều người dân vẫn ưa dùng áo tơi vì độ bền, sự thoáng mát tự nhiên và giá cả phải chăng.
Lá tơi - nguyên liệu chính để làm áo tơi Yên Lạc.
Một số công đoạn thủ công làm ra chiếc áo tơi Yên Lạc.
Tỉ mỉ trong từng công đoạn
Ông Nguyễn Đăng Thường (85 tuổi), một “lão nghệ nhân” của làng, cho biết mùa chính để làm áo tơi là từ tháng 2 đến tháng 7 âm lịch - khi lá cọ già đạt độ dai vừa đủ. “Loại lá cọ dùng làm áo tơi phải vào tận rừng sâu mới có… Người dân gọi đó là lá tơi để phân biệt với loại lá cọ trồng quanh nhà. Lá hái về phải phơi cho khô rồi vuốt mềm ra. Dây mây, giang cũng phải được đẽo, chẻ, phơi kỹ rồi mới bện lại thành triêng - sợi dây giữ cho áo không bung khi gặp gió to, mưa lớn”, ông Thường chia sẻ.
Làm một chiếc áo tơi là cả một quá trình đòi hỏi sự kiên nhẫn. Từ khâu chọn loại lá bánh tẻ - không non quá cũng không già quá - đến việc phơi đúng nắng để giữ được độ dẻo dai, không bị giòn gãy. Lá khô được bó lại, vuốt mềm rồi mới đưa vào chằm. Trong mỗi gia đình, thường sẽ có một người đảm nhận công đoạn chằm chính, những người còn lại phụ vuốt lá, bện dây.
Một chiếc áo tơi cần khoảng 180 - 200 tàu lá, được xếp lớp so le và khâu chặt tay bằng dây mây hoặc dây giang. Người chằm phải ngồi đúng tư thế, vuốt lá đều tay rồi tỉ mẩn dùng dùi xoi lỗ, xỏ dây, rút đều từng mũi như thêu tranh. “Để tơi không bị rách hay bung lớp, người thợ phải nắm được thế chằm - từ hướng lá, độ chồng đến độ siết dây. Sai một mũi là phải tháo lại từ đầu”, ông Thường cho biết.
Bà Đặng Thị Hiền (70 tuổi, thôn Yên Lạc), một trong những người gắn bó với nghề chằm tơi từ thuở thiếu nữ, chia sẻ: “Một chiếc tơi nắng chỉ khoảng 70 nghìn đồng nhưng mặc bền được đến ba mùa Hè. Mùa nắng này, tôi vẫn mặc áo tơi đi làm đồng, đỡ nóng lắm”, bà vừa nói vừa thoăn thoắt vuốt từng tàu lá. Những năm còn trẻ, bà có thể làm 5 - 6 chiếc mỗi ngày. Giờ đã cao tuổi, bà vẫn cố làm 3 - 4 cái để giữ nghề và có thêm thu nhập.
Trong những mái nhà nhỏ của Yên Lạc, nghề chằm tơi không chỉ là kế sinh nhai, mà còn là một phần ký ức gia đình. Bà Đặng Thị Chất - giáo viên nghỉ hưu - nhớ lại: “Hồi tôi mới về làm dâu ở Yên Lạc, chiều đi dạy về là lại ngồi phụ mẹ chồng chằm tơi. Thời gian đầu chỉ chuốt lá, sau học dần rồi biết chằm hoàn chỉnh. Nhờ nghề này mà gia đình tôi có thêm thu nhập, nuôi con cái ăn học đến nơi đến chốn”.
Chiếc áo tơi Yên Lạc được chằm nhiều lớp lá, đảm bảo mát khi nắng và che chắn nước khi mưa.
Từ mái nhà nhỏ vươn ra thị trường lớn
Thôn Yên Lạc hiện có 188 hộ dân, trong đó khoảng 2/3 hộ vẫn còn giữ nghề chằm tơi. Tuy vậy, số hộ làm nghề thường xuyên chỉ còn khoảng 15 - 20 hộ. Những cái tên như ông Nguyễn Đăng Đông - bà Nguyễn Thị An hay bà Nguyễn Thị Bàng vẫn là chỗ dựa vững chắc của làng nghề.
Năm 2022, Tổ hợp tác chằm tơi Yên Lạc được thành lập với 25 thành viên. Bà Trần Thị Lệ Thu - Chủ tịch tổ hợp tác - chia sẻ: “Chúng tôi muốn tập hợp những người còn tâm huyết, cùng nhau nâng cao chất lượng sản phẩm, tìm đầu ra ổn định và quảng bá áo tơi Yên Lạc đến với khách hàng xa hơn, rộng hơn”.
Sự ra đời của tổ hợp tác đã mang lại hiệu quả rõ rệt. Vào mùa cao điểm, các hộ chuyên làm tơi có thể đạt thu nhập từ 16 - 17 triệu đồng/tháng - con số không nhỏ đối với một vùng quê nông nghiệp. Quan trọng hơn, điều này giúp người dân yên tâm gắn bó với nghề, con cháu thấy được giá trị văn hóa và kinh tế mà nghề truyền thống mang lại.
Nhờ hoạt động tích cực của tổ hợp tác, áo tơi Yên Lạc đã vượt ra khỏi ranh giới làng quê. Nhiều đoàn du lịch, công ty lữ hành tìm đến đặt hàng với số lượng lớn để làm quà tặng hoặc phục vụ các trải nghiệm văn hóa. Hình ảnh chiếc áo tơi - mộc mạc, thân thiện, gần gũi - trở thành một biểu tượng văn hóa đậm chất miền Trung, khiến du khách thích thú và trân trọng.
Bà Đặng Thị Hiền (70 tuổi) - một trong 20 hộ dân còn giữ nghề tại làng.
Dẫu nhịp nghề nay đã lặng hơn xưa, nhưng những đơn hàng lớn vẫn là điểm sáng trong mùa chằm. Như tháng 4 vừa rồi, gia đình bà Đặng Thị Hiền - người thợ lão luyện với hơn nửa thế kỷ gắn bó nghề - đã nhận được đơn hàng gần 200 chiếc áo tơi gửi đi Thái Bình (địa phương trước sáp nhập đơn vị hành chính). Những đơn hàng như vậy không còn nhiều, nhưng là động lực quý giá, chứng tỏ áo tơi Yên Lạc vẫn có vị thế, không chỉ trong vùng mà còn lan tỏa đến các tỉnh lân cận.
Ngày nay, thị trường ngập tràn các loại áo chống nắng đủ kiểu dáng, chất liệu - từ vải dù, chống tia UV đến áo quạt gió, làm mát bằng pin sạc… Thế nhưng, chiếc áo tơi giản dị làm từ lá cọ vẫn âm thầm giữ vị trí riêng. Với người dân Yên Lạc, chiếc áo tơi không chỉ là vật dụng che mưa nắng, mà còn là hơi thở làng nghề, là sợi dây kết nối bao thế hệ với đất quê.
Chúng tôi muốn không chỉ giữ nghề, mà còn phát triển nghề. Tổ hợp tác ra đời để gắn kết các hộ, cùng nhau nâng cao chất lượng sản phẩm, tìm đầu ra ổn định và quảng bá áo tơi Yên Lạc đến với khách hàng xa hơn. Trong thời gian tới, chúng tôi cũng mong sẽ có thêm những sự hỗ trợ - không chỉ về nguồn vốn mà cả trong việc kết nối thị trường - để làng nghề không bị mai một. Bà Trần Thị Lê Thu, Chủ tịch Tổ hợp tác chằm tơi Yên Lạc
Đề xuất bổ sung hình thức đào tạo chính quy diện văn bằng 2
GD&TĐ - Độc giả đề xuất, bổ sung hình thức đào tạo chính quy diện văn bằng 2 vào Điều 4 Quy chế đào tạo trình độ đại học...
2025-11-05 10:10
Mở ra hướng đi mới trong gắn kết giữa cơ sở giáo dục đại học với doanh nghiệp
GD&TĐ - Ngày 4/11, Đại học Thái Nguyên đã có buổi làm việc và trao đổi hợp tác với Công ty Star Telecom (Unitel).
2025-11-05 10:08
Nhu cầu cấp bách về nguồn nhân lực số ở Đồng bằng sông Cửu Long
GD&TĐ - Nhu cầu nguồn nhân lực số ở ĐBSCL đang tăng nhanh, nhưng công tác đào tạo vẫn đang đối mặt nhiều thách thức.
2025-11-05 10:06
Khai mạc hội thảo quốc tế về môi trường và kỹ thuật điện
GD&TĐ - Hội thảo khoa học quốc tế IEEE về Môi trường và Kỹ thuật Điện- Châu Á năm 2025 (EEE-AM) khai mạc tại Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia sáng 5/11.
2025-11-05 10:05
Phú Thọ ban hành chính sách hỗ trợ lưu học sinh Lào
GD&TĐ - Chính sách nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các lưu học sinh Lào trong quá trình học tập và sinh hoạt tại Phú Thọ.
2025-11-05 10:05
Nghị quyết 18-NQ/TU: Đưa văn hóa và con người Hà Tĩnh thành sức mạnh nội sinh
Giữa dải đất miền Trung khắc nghiệt, Hà Tĩnh hiện lên như một vùng “địa linh nhân kiệt” – nơi sông Lam uốn lượn ôm chân núi Hồng, nơi con người và văn hóa hòa quyện tạo nên một mạch nguồn bền bỉ hun đúc nên bản sắc riêng biệt. Đó không chỉ là vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ mà còn là “linh khí Hồng Lam”, thứ tài sản vô hình nhưng vô giá, góp phần tạo nên sức mạnh nội sinh cho sự phát triển hôm nay.
2025-11-05 10:04
Giới trẻ 'phát sốt' với trào lưu tạo ảnh đứng giữa không gian tuyết trắng bằng AI
(CLO) Chỉ trong vài ngày, mạng xã hội Việt Nam phủ kín sắc trắng lãng mạn của mùa đông khi trào lưu tạo ảnh tâm trạng giữa tuyết trắng bằng AI bùng nổ.
2025-11-05 10:03
3 trụ cột chính làm nên giá trị bất biến của nghề giáo trong kỷ nguyên AI
GD&TĐ - 3 trụ cột chính làm nên giá trị cốt lõi, khẳng định vai trò bất biến của nhà giáo mà công nghệ không thể thay thế.
2025-11-05 10:02
Hoàng thành Thăng Long: 15 năm tìm lại diện mạo kinh đô xưa
GD&TĐ - 15 năm nghiên cứu cũng đặt ra những câu hỏi về phương thức bảo tồn và phát huy giá trị di sản trong lòng đô thị hiện đại.
2025-11-05 10:02
Ánh sáng tri thức nơi biên viễn Trung Lý
GD&TĐ - Giữa núi rừng vùng biên, những lớp học xóa mù chữ của Đồn Biên phòng Trung Lý vẫn sáng đèn, thắp lên hy vọng đổi thay cho đồng bào Mông.