GD&TĐ - Giữa nhịp sống hiện đại len sâu vào từng buôn làng, những lời kể Hơ’mon - sử thi của người Ba Na nhánh Rơ Ngao vẫn âm ỉ cháy.
Với già A Jar, già A Lưu, mỗi câu chuyện về chàng Đăm Giông không chỉ là ký ức văn hóa, mà còn là hồn cốt của cả một dân tộc. Nhưng rồi, khi giọng kể dần lặng im. Ai sẽ là người tiếp lời cho khúc sử thi ấy giữa đại ngàn?
Kho báu văn hóa trong lời kể của già làng
Trong làn sương sớm giăng ngang làng Plei Don (phường Quang Trung, TP Kon Tum cũ nay là phường Kon Tum, Quảng Ngãi), già A Jar lặng lẽ ngồi bên bậu cửa, mắt hướng về ngọn núi phía xa. Đã bao năm chép, dịch sử thi, giờ ông vẫn nhớ từng nhịp kể, từng đoạn hát như hơi thở đời mình. Hơ’mon - sử thi của người Ba Na nhánh Rơ Ngao không chỉ là ký ức, mà là linh hồn của cả một cộng đồng.
Người Ba Na gọi sử thi là Hơ’mon hoặc Hơ’mon hơri - tức là vừa hát vừa kể. Những bản trường ca ấy không chỉ ghi lại chiến công của một người anh hùng, mà là sự kết tinh của lịch sử, văn hóa, trí tuệ, tình cảm cộng đồng qua hàng trăm năm truyền miệng.
Gần hai mươi năm qua, các nhà nghiên cứu, chuyên gia văn hóa đã dày công sưu tầm, ghi âm, phiên âm và dịch thuật kho tàng này. Già A Jar được xem là người có công lớn khi trực tiếp dịch hơn 20 tác phẩm sử thi Ba Na sang tiếng phổ thông.
Nhớ lại những năm 2000, già A Jar được mời tham gia dự án sưu tầm và biên dịch kho tàng sử thi Tây Nguyên do Viện Khoa học Xã hội Việt Nam thực hiện. Các nghệ nhân Ba Na sẽ hát kể, các chuyên gia ghi âm, còn già A Jar đảm nhận việc phiên âm, dịch nghĩa. Dự án kết thúc năm 2005, nhưng già không dừng lại. Ông tiếp tục cộng tác với Tiến sĩ Nguyễn Tiến Dũng - giảng viên cao cấp Trường Đại học Sư phạm TPHCM để hoàn thiện quá trình biên dịch.
Từ nỗ lực bền bỉ ấy, hệ thống Hơ’mon của người Rơ Ngao dần được phục dựng một cách nguyên bản và công phu. Mỗi bài hát kể là một mảnh ghép độc lập về chiến công của chàng Đăm Giông - chàng trai quả cảm, giàu lòng trắc ẩn và tài năng vượt trội. Nhưng đồng thời gắn kết với nhau thành một bản anh hùng ca xuyên suốt, phản ánh quá trình đấu tranh, lao động, bảo vệ buôn làng của cộng đồng.
Khác với những sử thi độc lập, Hơ’mon của người Rơ Ngao là một hệ thống tác phẩm liên hoàn với nhân vật trung tâm là chàng Đăm Giông - người có sức mạnh phi thường, tài năng xuất chúng, sống giữa rừng xanh, gắn bó với muông thú, luôn chiến đấu vì công lý và cộng đồng.
Hệ thống sử thi Hơ’mon bao gồm các tác phẩm như: Giông đánh hạ nguồn cứu xứ sở, Giông cứu nàng Rang Hu, Giông cưới nàng Khỉ, Giông cứu đói dân làng mọi nơi… mỗi câu chuyện như một lát cắt đầy màu sắc trong hành trình của người anh hùng. Mỗi tác phẩm đứng riêng đã trọn vẹn, nhưng đặt cạnh nhau lại tạo thành một bức tranh toàn cảnh về đời sống, tín ngưỡng, nhân sinh quan của người Rơ Ngao.
Hơ’mon không chỉ là tác phẩm văn học - đó là ký ức cộng đồng, là cách người Ba Na kể lại lịch sử và lý tưởng của họ. Qua những lời hát kể, thế hệ sau được dẫn dắt trở về với cội nguồn, với những giá trị đã nâng đỡ họ đi qua bao mùa rẫy, bao năm tháng rừng thiêng sông dữ.
Với hơn 100 bài sử thi đã thuộc nằm lòng, già A Lưu vẫn thường kể cho con, cháu nghe.
Hơ’mon không chỉ là tác phẩm văn học - đó là ký ức cộng đồng, là cách người Ba Na kể lại lịch sử và lý tưởng của họ.
Người anh hùng cứu đói
Trong hệ thống sử thi Hơ’mon, Giông cứu đói dân làng mọi nơi là tác phẩm tái hiện cuộc sống gian nan, vất vả của người Tây Nguyên xưa khi phải chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt để tồn tại. Trong nạn đói thảm khốc do hạn hán, mất mùa, dân làng chết đói hàng loạt, đời sống lâm vào cảnh cùng quẫn.
Câu chuyện mở đầu bằng cảnh nạn đói hoành hành khắp nơi. Trời hạn hán khiến cây cối không mọc, măng rừng cũng không có, người dân không còn gì để ăn. Nhiều nơi rơi vào tình trạng khốn cùng, ăn cả thóc giống. Nạn đói không chỉ do trời (Yang) gây ra, mà còn bởi con người lười biếng, ăn chơi, không biết tích trữ hay lo làm ăn.
Giữa lúc khắp nơi đói kém, chỉ có xứ đầu nguồn do Bok Set làm chủ làng là còn no đủ vì ông siêng năng, biết nhìn xa trông rộng và dự trữ lương thực. Con trai ông là Giông xin mở kho cứu đói cho dân khắp nơi, kể cả những vùng thường xuyên gây hấn. Tuy nhiên, những người lười biếng chỉ được phát đủ ăn để không ỷ lại. Giông khuyên họ phải siêng năng lao động.
Không chỉ cứu đói trước mắt, Giông còn tổ chức cho dân phát rừng làm rẫy, hướng dẫn cách sản xuất lâu dài. Nhờ sự chỉ đạo và chăm lo của Giông, mọi người hăng hái làm việc, rẫy lúa phát triển tốt, mùa màng bội thu, lúa nhiều đến mức “tuốt vài bụi mà đầy cảo”. Giông còn đi săn để có thêm thịt khô làm thức ăn cho dân.
Nhờ đức tính siêng năng, tốt bụng và tài giỏi, Giông trở thành người có uy tín lớn, được dân khắp nơi tìm đến xin thóc và học cách làm ăn.
Chiến công này của Giông không phải là kì tích trên chiến trường để bảo vệ buôn làng hay chiến thắng kẻ thù hung ác mà ở lĩnh vực đời sống hàng ngày. Đăm Giông đã cứu sống dân làng bằng thành quả lao động chân chính của mình, đó là thóc gạo, thực phẩm từ súc vật chăn nuôi hoặc săn bắt được. Chàng tỏa sáng giữa dân làng bởi sự siêng năng, cần cù, tháo vát và tình yêu thương những con người trong cảnh khốn cùng.
Già A Jar được xem là người có công lớn khi trực tiếp dịch hơn 20 tác phẩm sử thi Ba Na sang tiếng phổ thông.
Già A Jar (trái) và già A Lưu lo lắng sẽ đến lúc chẳng còn ai nhớ đến Giông, đến Hơ’mon nữa.
Khúc sử thi cần được tiếp lời
Trong căn nhà sàn cũ kỹ ở làng Kon Klor II (xã Đăk Rơ Wa, Quảng Ngãi) già A Lưu (82 tuổi) vẫn thỉnh thoảng hát Hơ’mon trong những đêm gió trở mình. Từng là một trong những nghệ nhân diễn xướng giỏi nhất tỉnh, ông theo mẹ học hát kể từ năm 9 tuổi.
Với hơn 100 bài sử thi đã thuộc nằm lòng, già A Lưu từng là “ngọn lửa” giữ Hơ’mon cháy sáng trong lòng buôn làng. Ông bảo, Hơ’mon không cầu kỳ về hình thức. Người kể có thể vừa làm rẫy vừa hát, hoặc ngồi bên bếp lửa, giữa nhà rông, kể cho bà con nghe thâu đêm suốt sáng. Có lúc người kể nằm, người nghe cũng nằm - lắng lòng giữa bóng đêm và tiếng kể ngân nga như khói bếp len lỏi qua mái nhà sàn.
Sử thi Rơ Ngao đan xen giữa văn xuôi và những đoạn hát kể bằng văn vần, mang nét ngôn ngữ mộc mạc, chân chất. Trong đó, Giông hiện lên không chỉ là chiến binh dũng mãnh, mà còn là người lao động cần cù, giỏi giang: Từ làm rẫy, rèn sắt đến dựng nhà rông. Chàng là người được buôn làng kính trọng, sơn nữ ngưỡng mộ.
Đáng nhớ hơn cả là hình ảnh Giông như một phần của thiên nhiên - sống giữa rừng, kết bạn cùng muông thú. Có những đoạn sử thi kể rằng Giông nuôi cả trăm con hổ, mà hổ không ăn thịt chàng, lại giúp chàng trừ gian diệt bạo. Giông có thể điều khiển cả trăn, khỉ, gấu, tê tê... Một vị anh hùng gần gũi với núi rừng như thế, vừa mạnh mẽ, vừa nhân hậu.
“Hồi đó, cả làng ngồi quanh bếp lửa, nghe kể Hơ’mon suốt đêm. Mỗi lần kể, tôi như sống lại với Giông, cùng Giông vượt núi, qua sông, đánh giặc cứu người”, ông hồi tưởng, giọng trầm buồn.
Nhưng giờ đây, người nghe đã thưa thớt dần. Những đêm nhà rông đầy ắp tiếng kể, tiếng cười, đã nhường chỗ cho tiếng tivi, tiếng điện thoại. Lũ trẻ không còn mặn mà với những bản trường ca dài dằng dặc. “Tôi lo lắm. Sẽ đến lúc chẳng còn ai nhớ đến Giông, đến Hơ’mon nữa...”, ông nói, ánh mắt xa xăm.
Đăm Giông không chỉ là nhân vật của sử thi. Với già A Jar, già A Lưu và bao thế hệ người Ba Na, chàng còn là biểu tượng của tinh thần dân tộc mạnh mẽ, bất khuất, nghĩa tình. Nếu những bản Hơ’mon không còn được nhắc đến, cũng có nghĩa là một phần hồn cốt Tây Nguyên đã lặng lẽ rơi rụng theo gió núi.
Theo bà Đậu Ngọc Hoài Thu - Trưởng phòng Quản lý văn hóa và Gia đình (Sở VH-TT&DL tỉnh Kon Tum cũ), năm 2015, sử thi Hơ’mon của người Ba Na tại Kon Tum chính thức được Bộ VH-TT&DL đưa vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Đến nay, kho tàng sử thi của người Ba Na trên địa bàn tỉnh có khoảng hơn 100 tác phẩm. Các nghệ nhân biết hát kể sử thi phân bố rải rác ở các huyện như Đăk Hà, Sa Thầy, Kon Rẫy và TP Kon Tum.
Tuy nhiên, theo dòng chảy thời gian, số người còn có khả năng hát kể sử thi ngày một ít đi, chỉ còn đếm trên đầu ngón tay. Và người nghe, những người đủ kiên nhẫn, đủ rung động để đồng hành cùng những đêm kể Hơ’mon cũng dần thưa vắng.
Trước nguy cơ mai một, ngành Văn hóa tỉnh Kon Tum (cũ) đã kiểm kê, rà soát, thống kê sơ bộ các tác phẩm còn lại và số lượng nghệ nhân có khả năng diễn xướng. Trên cơ sở đó, sẽ tham mưu cấp thẩm quyền xây dựng Đề án “Bảo tồn, phát huy giá trị sử thi các dân tộc thiểu số tại chỗ trên địa bàn tỉnh Kon Tum”.
Đề án đặt trọng tâm vào công tác trao truyền, tổ chức các hoạt động hướng dẫn thế hệ trẻ tiếp cận và học hỏi kỹ năng diễn xướng Hơ’mon của dân tộc Ba Na. Đồng thời đưa hình thức hát kể sử thi vào các chương trình văn hóa - văn nghệ mang tính cộng đồng như Ngày hội Văn hóa các dân tộc, Liên hoan văn nghệ quần chúng, Tuần Văn hóa - Du lịch...
Những hoạt động này không chỉ giúp bảo tồn Hơ’mon như một giá trị văn hóa đặc sắc, mà còn góp phần nuôi dưỡng lòng tự hào dân tộc, khơi lại mạch ngầm văn hóa đang có nguy cơ bị lãng quên.
Già A Jar ngồi chép, dịch sử thi trong căn nhà nhỏ ở làng Plei Don.
Với già A Jar, già A Lưu, mỗi câu chuyện về chàng Đăm Giông không chỉ là ký ức văn hóa, mà còn là hồn cốt của cả một dân tộc. Nhưng rồi, khi giọng kể dần lặng im. Ai sẽ là người tiếp lời cho khúc sử thi ấy giữa đại ngàn?
Kho báu văn hóa trong lời kể của già làng
Trong làn sương sớm giăng ngang làng Plei Don (phường Quang Trung, TP Kon Tum cũ nay là phường Kon Tum, Quảng Ngãi), già A Jar lặng lẽ ngồi bên bậu cửa, mắt hướng về ngọn núi phía xa. Đã bao năm chép, dịch sử thi, giờ ông vẫn nhớ từng nhịp kể, từng đoạn hát như hơi thở đời mình. Hơ’mon - sử thi của người Ba Na nhánh Rơ Ngao không chỉ là ký ức, mà là linh hồn của cả một cộng đồng.
Người Ba Na gọi sử thi là Hơ’mon hoặc Hơ’mon hơri - tức là vừa hát vừa kể. Những bản trường ca ấy không chỉ ghi lại chiến công của một người anh hùng, mà là sự kết tinh của lịch sử, văn hóa, trí tuệ, tình cảm cộng đồng qua hàng trăm năm truyền miệng.
Gần hai mươi năm qua, các nhà nghiên cứu, chuyên gia văn hóa đã dày công sưu tầm, ghi âm, phiên âm và dịch thuật kho tàng này. Già A Jar được xem là người có công lớn khi trực tiếp dịch hơn 20 tác phẩm sử thi Ba Na sang tiếng phổ thông.
Nhớ lại những năm 2000, già A Jar được mời tham gia dự án sưu tầm và biên dịch kho tàng sử thi Tây Nguyên do Viện Khoa học Xã hội Việt Nam thực hiện. Các nghệ nhân Ba Na sẽ hát kể, các chuyên gia ghi âm, còn già A Jar đảm nhận việc phiên âm, dịch nghĩa. Dự án kết thúc năm 2005, nhưng già không dừng lại. Ông tiếp tục cộng tác với Tiến sĩ Nguyễn Tiến Dũng - giảng viên cao cấp Trường Đại học Sư phạm TPHCM để hoàn thiện quá trình biên dịch.
Từ nỗ lực bền bỉ ấy, hệ thống Hơ’mon của người Rơ Ngao dần được phục dựng một cách nguyên bản và công phu. Mỗi bài hát kể là một mảnh ghép độc lập về chiến công của chàng Đăm Giông - chàng trai quả cảm, giàu lòng trắc ẩn và tài năng vượt trội. Nhưng đồng thời gắn kết với nhau thành một bản anh hùng ca xuyên suốt, phản ánh quá trình đấu tranh, lao động, bảo vệ buôn làng của cộng đồng.
Khác với những sử thi độc lập, Hơ’mon của người Rơ Ngao là một hệ thống tác phẩm liên hoàn với nhân vật trung tâm là chàng Đăm Giông - người có sức mạnh phi thường, tài năng xuất chúng, sống giữa rừng xanh, gắn bó với muông thú, luôn chiến đấu vì công lý và cộng đồng.
Hệ thống sử thi Hơ’mon bao gồm các tác phẩm như: Giông đánh hạ nguồn cứu xứ sở, Giông cứu nàng Rang Hu, Giông cưới nàng Khỉ, Giông cứu đói dân làng mọi nơi… mỗi câu chuyện như một lát cắt đầy màu sắc trong hành trình của người anh hùng. Mỗi tác phẩm đứng riêng đã trọn vẹn, nhưng đặt cạnh nhau lại tạo thành một bức tranh toàn cảnh về đời sống, tín ngưỡng, nhân sinh quan của người Rơ Ngao.
Hơ’mon không chỉ là tác phẩm văn học - đó là ký ức cộng đồng, là cách người Ba Na kể lại lịch sử và lý tưởng của họ. Qua những lời hát kể, thế hệ sau được dẫn dắt trở về với cội nguồn, với những giá trị đã nâng đỡ họ đi qua bao mùa rẫy, bao năm tháng rừng thiêng sông dữ.
Với hơn 100 bài sử thi đã thuộc nằm lòng, già A Lưu vẫn thường kể cho con, cháu nghe.
Hơ’mon không chỉ là tác phẩm văn học - đó là ký ức cộng đồng, là cách người Ba Na kể lại lịch sử và lý tưởng của họ.
Người anh hùng cứu đói
Trong hệ thống sử thi Hơ’mon, Giông cứu đói dân làng mọi nơi là tác phẩm tái hiện cuộc sống gian nan, vất vả của người Tây Nguyên xưa khi phải chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt để tồn tại. Trong nạn đói thảm khốc do hạn hán, mất mùa, dân làng chết đói hàng loạt, đời sống lâm vào cảnh cùng quẫn.
Câu chuyện mở đầu bằng cảnh nạn đói hoành hành khắp nơi. Trời hạn hán khiến cây cối không mọc, măng rừng cũng không có, người dân không còn gì để ăn. Nhiều nơi rơi vào tình trạng khốn cùng, ăn cả thóc giống. Nạn đói không chỉ do trời (Yang) gây ra, mà còn bởi con người lười biếng, ăn chơi, không biết tích trữ hay lo làm ăn.
Giữa lúc khắp nơi đói kém, chỉ có xứ đầu nguồn do Bok Set làm chủ làng là còn no đủ vì ông siêng năng, biết nhìn xa trông rộng và dự trữ lương thực. Con trai ông là Giông xin mở kho cứu đói cho dân khắp nơi, kể cả những vùng thường xuyên gây hấn. Tuy nhiên, những người lười biếng chỉ được phát đủ ăn để không ỷ lại. Giông khuyên họ phải siêng năng lao động.
Không chỉ cứu đói trước mắt, Giông còn tổ chức cho dân phát rừng làm rẫy, hướng dẫn cách sản xuất lâu dài. Nhờ sự chỉ đạo và chăm lo của Giông, mọi người hăng hái làm việc, rẫy lúa phát triển tốt, mùa màng bội thu, lúa nhiều đến mức “tuốt vài bụi mà đầy cảo”. Giông còn đi săn để có thêm thịt khô làm thức ăn cho dân.
Nhờ đức tính siêng năng, tốt bụng và tài giỏi, Giông trở thành người có uy tín lớn, được dân khắp nơi tìm đến xin thóc và học cách làm ăn.
Chiến công này của Giông không phải là kì tích trên chiến trường để bảo vệ buôn làng hay chiến thắng kẻ thù hung ác mà ở lĩnh vực đời sống hàng ngày. Đăm Giông đã cứu sống dân làng bằng thành quả lao động chân chính của mình, đó là thóc gạo, thực phẩm từ súc vật chăn nuôi hoặc săn bắt được. Chàng tỏa sáng giữa dân làng bởi sự siêng năng, cần cù, tháo vát và tình yêu thương những con người trong cảnh khốn cùng.
Già A Jar được xem là người có công lớn khi trực tiếp dịch hơn 20 tác phẩm sử thi Ba Na sang tiếng phổ thông.
Già A Jar (trái) và già A Lưu lo lắng sẽ đến lúc chẳng còn ai nhớ đến Giông, đến Hơ’mon nữa.
Khúc sử thi cần được tiếp lời
Trong căn nhà sàn cũ kỹ ở làng Kon Klor II (xã Đăk Rơ Wa, Quảng Ngãi) già A Lưu (82 tuổi) vẫn thỉnh thoảng hát Hơ’mon trong những đêm gió trở mình. Từng là một trong những nghệ nhân diễn xướng giỏi nhất tỉnh, ông theo mẹ học hát kể từ năm 9 tuổi.
Với hơn 100 bài sử thi đã thuộc nằm lòng, già A Lưu từng là “ngọn lửa” giữ Hơ’mon cháy sáng trong lòng buôn làng. Ông bảo, Hơ’mon không cầu kỳ về hình thức. Người kể có thể vừa làm rẫy vừa hát, hoặc ngồi bên bếp lửa, giữa nhà rông, kể cho bà con nghe thâu đêm suốt sáng. Có lúc người kể nằm, người nghe cũng nằm - lắng lòng giữa bóng đêm và tiếng kể ngân nga như khói bếp len lỏi qua mái nhà sàn.
Sử thi Rơ Ngao đan xen giữa văn xuôi và những đoạn hát kể bằng văn vần, mang nét ngôn ngữ mộc mạc, chân chất. Trong đó, Giông hiện lên không chỉ là chiến binh dũng mãnh, mà còn là người lao động cần cù, giỏi giang: Từ làm rẫy, rèn sắt đến dựng nhà rông. Chàng là người được buôn làng kính trọng, sơn nữ ngưỡng mộ.
Đáng nhớ hơn cả là hình ảnh Giông như một phần của thiên nhiên - sống giữa rừng, kết bạn cùng muông thú. Có những đoạn sử thi kể rằng Giông nuôi cả trăm con hổ, mà hổ không ăn thịt chàng, lại giúp chàng trừ gian diệt bạo. Giông có thể điều khiển cả trăn, khỉ, gấu, tê tê... Một vị anh hùng gần gũi với núi rừng như thế, vừa mạnh mẽ, vừa nhân hậu.
“Hồi đó, cả làng ngồi quanh bếp lửa, nghe kể Hơ’mon suốt đêm. Mỗi lần kể, tôi như sống lại với Giông, cùng Giông vượt núi, qua sông, đánh giặc cứu người”, ông hồi tưởng, giọng trầm buồn.
Nhưng giờ đây, người nghe đã thưa thớt dần. Những đêm nhà rông đầy ắp tiếng kể, tiếng cười, đã nhường chỗ cho tiếng tivi, tiếng điện thoại. Lũ trẻ không còn mặn mà với những bản trường ca dài dằng dặc. “Tôi lo lắm. Sẽ đến lúc chẳng còn ai nhớ đến Giông, đến Hơ’mon nữa...”, ông nói, ánh mắt xa xăm.
Đăm Giông không chỉ là nhân vật của sử thi. Với già A Jar, già A Lưu và bao thế hệ người Ba Na, chàng còn là biểu tượng của tinh thần dân tộc mạnh mẽ, bất khuất, nghĩa tình. Nếu những bản Hơ’mon không còn được nhắc đến, cũng có nghĩa là một phần hồn cốt Tây Nguyên đã lặng lẽ rơi rụng theo gió núi.
Theo bà Đậu Ngọc Hoài Thu - Trưởng phòng Quản lý văn hóa và Gia đình (Sở VH-TT&DL tỉnh Kon Tum cũ), năm 2015, sử thi Hơ’mon của người Ba Na tại Kon Tum chính thức được Bộ VH-TT&DL đưa vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Đến nay, kho tàng sử thi của người Ba Na trên địa bàn tỉnh có khoảng hơn 100 tác phẩm. Các nghệ nhân biết hát kể sử thi phân bố rải rác ở các huyện như Đăk Hà, Sa Thầy, Kon Rẫy và TP Kon Tum.
Tuy nhiên, theo dòng chảy thời gian, số người còn có khả năng hát kể sử thi ngày một ít đi, chỉ còn đếm trên đầu ngón tay. Và người nghe, những người đủ kiên nhẫn, đủ rung động để đồng hành cùng những đêm kể Hơ’mon cũng dần thưa vắng.
Trước nguy cơ mai một, ngành Văn hóa tỉnh Kon Tum (cũ) đã kiểm kê, rà soát, thống kê sơ bộ các tác phẩm còn lại và số lượng nghệ nhân có khả năng diễn xướng. Trên cơ sở đó, sẽ tham mưu cấp thẩm quyền xây dựng Đề án “Bảo tồn, phát huy giá trị sử thi các dân tộc thiểu số tại chỗ trên địa bàn tỉnh Kon Tum”.
Đề án đặt trọng tâm vào công tác trao truyền, tổ chức các hoạt động hướng dẫn thế hệ trẻ tiếp cận và học hỏi kỹ năng diễn xướng Hơ’mon của dân tộc Ba Na. Đồng thời đưa hình thức hát kể sử thi vào các chương trình văn hóa - văn nghệ mang tính cộng đồng như Ngày hội Văn hóa các dân tộc, Liên hoan văn nghệ quần chúng, Tuần Văn hóa - Du lịch...
Những hoạt động này không chỉ giúp bảo tồn Hơ’mon như một giá trị văn hóa đặc sắc, mà còn góp phần nuôi dưỡng lòng tự hào dân tộc, khơi lại mạch ngầm văn hóa đang có nguy cơ bị lãng quên.
Trường đại học ngập hồ sơ xét tuyển vì IELTS thành 'vé vàng'
(CLO) Mùa tuyển sinh đại học 2025 chứng kiến “cơn sóng” thí sinh dùng chứng chỉ ngoại ngữ quốc tế, đặc biệt là IELTS để quy đổi thành điểm tiếng Anh hoặc cộng điểm ưu tiên với mức tăng từ 1,5 đến 4 lần tại nhiều trường đại học trên cả nước.
2025-08-10 03:45
26 bệnh viện tại TPHCM có tên mới
GD&TĐ - UBND TPHCM ban hành quyết định chính thức đổi tên 26 bệnh viện trên địa bàn.
2025-08-10 03:38
Khúc sử thi giữa đại ngàn
GD&TĐ - Giữa nhịp sống hiện đại len sâu vào từng buôn làng, những lời kể Hơ’mon - sử thi của người Ba Na nhánh Rơ Ngao vẫn âm ỉ cháy.
2025-08-10 03:33
Phú Thọ duy trì 100% trẻ 5 tuổi ra lớp, hướng tới phổ cập GDMN từ 3 tuổi
GD&TĐ - Với tỷ lệ 100% trẻ 5 tuổi ra lớp và hoàn thành chương trình giáo dục mầm non, tỉnh Phú Thọ đặt mục tiêu giai đoạn 2026 - 2030 sẽ phổ cập từ 3 tuổi.
2025-08-10 03:23
Lai Châu cần vận hành hiệu quả mô hình quản lý giáo dục sau sáp nhập
GD&TĐ - Ngành GD&ĐT Lai Châu cần nhanh chóng kiện toàn, vận hành hiệu quả mô hình quản lý giáo dục sau khi thực hiện chính quyền địa phương 2 cấp.
2025-08-10 02:54
Nhiều trường học vùng cao Điện Biên bề bộn trong đống hoang tàn trước năm học mới
GD&TĐ - Cơn lũ đi qua, để lại nhiều trường học ở Điện Biên trong các đống hoang tàn, thiết bị và sách vở hư hỏng nặng...
2025-08-10 02:53
Triển vọng ngành Thương mại điện tử
GD&TĐ - Thương mại điện tử không chỉ là xu thế tất yếu mà còn trở thành một trong những ngành học đầy triển vọng.
2025-08-10 02:51
Sách cũ cho đi, niềm vui ở lại
GD&TĐ - Để chuẩn bị cho năm học mới, nhiều trường học phát động phong trào quyên góp sách cũ tặng học sinh có nhu cầu, nhất là những em có hoàn cảnh khó khăn.
2025-08-10 02:47
Nâng chất lượng đội ngũ: Điểm tựa từ Luật Nhà giáo
GD&TĐ - Luật Nhà giáo quy định đầy đủ về vị trí pháp lý, quyền, nghĩa vụ và các chính sách dành cho giáo viên sẽ có hiệu lực từ năm 2026.
2025-08-10 02:44
Hà Nội chính thức triển khai giảng dạy chương trình tích hợp liên kết giáo dục
GD&TĐ - Sau thời gian thí điểm đào tạo song bằng, Hà Nội sẽ chính thức triển khai giảng dạy chương trình tích hợp theo quy định mới.