Đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai: Cần lộ trình chắc chắn và đồng bộ
2025/11/20 14:57
GD&TĐ - Đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học được xem là bước đi quan trọng nhằm nâng cao năng lực hội nhập cho thế hệ trẻ.
Những yêu cầu đặt ra từ thực tiễn
Hội đồng Quốc gia Giáo dục và Phát triển nhân lực vừa tổ chức phiên họp xin ý kiến góp ý cho dự thảo Đề án đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học giai đoạn 2025–2035, tầm nhìn đến năm 2045.
Chia sẻ về vấn đề này, ông Lê Xuân Quang, Hiệu trưởng Trường Tiểu học và THCS Nguyễn Văn Trỗi (xã Ya Ly, Quảng Ngãi), cho biết, tiếng Anh không chỉ là công cụ giao tiếp mà còn là “cánh cửa” mở ra tri thức toàn cầu. Đa số tài liệu khoa học, học thuật, văn hóa đều sử dụng tiếng Anh, vì vậy việc tiếp cận ngôn ngữ phổ quát này sẽ tạo lợi thế lớn cho học sinh Việt Nam trên con đường hội nhập.
Nhiều quốc gia châu Á như Singapore, Ấn Độ hay các nước dùng song song hai ngôn ngữ như Canada, Nam Phi đã chứng minh lợi ích rõ rệt khi tiếng Anh trở thành ngôn ngữ chính hoặc ngôn ngữ thứ hai. Tuy nhiên, theo ông Quang, Việt Nam cần chuẩn bị thận trọng bởi sự khác biệt về nền tảng ngôn ngữ giữa các vùng miền. Đặc biệt, ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, học sinh phải tiếp cận tiếng Anh như ngôn ngữ thứ ba, sau tiếng mẹ đẻ và tiếng Việt, dẫn đến mặt bằng tiếp thu không đồng đều.
Ông Quang nhấn mạnh yêu cầu chuẩn bị kỹ lưỡng đội ngũ giảng dạy, chương trình học, cơ sở vật chất và môi trường thực hành. Hiện cả nước còn thiếu trên 30.000 giáo viên tiếng Anh; một bộ phận giáo viên vẫn dạy theo phương pháp cũ, chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới. Bên cạnh đó, nhiều tài liệu giảng dạy chậm cập nhật, còn lúng túng khi tổ chức dạy các môn khoa học bằng tiếng Anh do thiếu giáo viên có chuyên môn song ngữ.
Về nền tảng ngôn ngữ, ông Quang cho rằng cần củng cố tiếng Việt – ngôn ngữ mẹ đẻ trước khi triển khai mạnh mẽ tiếng Anh để tránh gây rối loạn phát triển ngôn ngữ ở trẻ nhỏ. Ngoài ra, chương trình học chưa thật sự phù hợp giữa các vùng; chất lượng đầu tư cho giáo dục ngoại ngữ chênh lệch lớn do mặt bằng dân trí, điều kiện kinh tế khác nhau.
Cơ sở vật chất cũng là thách thức lớn. Nhiều trường vùng sâu, vùng xa vẫn thiếu phòng học tiếng Anh, thiết bị nghe nhìn, hoặc thậm chí thiếu cả phòng học kiên cố. Môi trường học tập và đánh giá chưa đồng bộ khiến việc đo lường tiến bộ của học sinh còn nhiều bất cập. Trong khi đó, các trường ở đô thị dễ dàng tiếp cận nguồn lực xã hội hóa, tạo lợi thế vượt trội.
Theo ông Quang, đề án muốn thành công phải được nghiên cứu sâu, trưng cầu phản biện rộng rãi và đầu tư dài hơi.
“Đây là nhiệm vụ quan trọng để nâng tầm con người Việt Nam trong thời đại mới, nhưng cần đi từng bước chắc chắn”, ông Quang nói.
Tạo môi trường học tiếng Anh thực chất và bền vững
Trường Tiểu học và THCS xã Xốp (Quảng Ngãi) quan tâm, chú trọng việc dạy tiếng Anh.
Đồng quan điểm, ông Trần Ngọc Mạnh, Hiệu trưởng Trường Tiểu học và THCS xã Xốp (Quảng Ngãi), cho rằng, đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai là nhiệm vụ lớn, đòi hỏi sự vào cuộc của toàn bộ hệ thống. Ông đề xuất các nhóm giải pháp trọng tâm nhằm nâng cao chất lượng dạy và học ngoại ngữ.
Về đội ngũ, cần đẩy mạnh bồi dưỡng chuyên môn, kỹ năng giao tiếp và phương pháp giảng dạy hiện đại cho giáo viên, nhất là ở vùng khó khăn. Việc mở rộng các khóa tập huấn, lớp học trực tuyến và chương trình giao lưu chuyên môn sẽ giúp giáo viên cập nhật kiến thức và nâng cao sự tự tin khi giảng dạy.
Về môi trường học tập, ông Mạnh nhấn mạnh vai trò của việc tạo “không gian tiếng Anh” trong trường học. Các câu lạc bộ tiếng Anh, ngày hội tiếng Anh, góc học tập, hoạt động ngoại khóa bằng tiếng Anh không chỉ tạo hứng thú mà còn giúp học sinh mạnh dạn sử dụng ngôn ngữ trong đời sống hằng ngày.
Về cơ sở vật chất, các trường cần được trang bị phòng học ngoại ngữ chuẩn, thiết bị nghe – nhìn, phần mềm học trực tuyến. Nguồn học liệu cũng phải phong phú, hấp dẫn và phù hợp với học sinh ở nhiều trình độ khác nhau, đặc biệt là trẻ vùng nông thôn, miền núi.
Về sự phối hợp giữa nhà trường – gia đình – xã hội, phụ huynh cần hiểu rõ tầm quan trọng của tiếng Anh để đồng hành cùng con. Bên cạnh đó, việc huy động nguồn lực xã hội hóa, sự tham gia của tổ chức, cá nhân sẽ góp phần thu hẹp khoảng cách giữa các địa phương.
Ở góc nhìn dài hạn, ông Mạnh cho rằng, tiếng Anh cần được xem như công cụ học tập mở rộng, đồng hành với các môn học khác, nhằm tăng tính ứng dụng và giúp học sinh hiểu rõ lợi ích thiết thực của ngoại ngữ.
“Học tiếng Anh không chỉ để thi, mà để mở cánh cửa vào cuộc sống”, ông Mạnh nói.
Học sinh tại xã biên giới của Quảng Ngãi trong giờ học tiếng Anh.
Những yêu cầu đặt ra từ thực tiễn
Hội đồng Quốc gia Giáo dục và Phát triển nhân lực vừa tổ chức phiên họp xin ý kiến góp ý cho dự thảo Đề án đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học giai đoạn 2025–2035, tầm nhìn đến năm 2045.
Chia sẻ về vấn đề này, ông Lê Xuân Quang, Hiệu trưởng Trường Tiểu học và THCS Nguyễn Văn Trỗi (xã Ya Ly, Quảng Ngãi), cho biết, tiếng Anh không chỉ là công cụ giao tiếp mà còn là “cánh cửa” mở ra tri thức toàn cầu. Đa số tài liệu khoa học, học thuật, văn hóa đều sử dụng tiếng Anh, vì vậy việc tiếp cận ngôn ngữ phổ quát này sẽ tạo lợi thế lớn cho học sinh Việt Nam trên con đường hội nhập.
Nhiều quốc gia châu Á như Singapore, Ấn Độ hay các nước dùng song song hai ngôn ngữ như Canada, Nam Phi đã chứng minh lợi ích rõ rệt khi tiếng Anh trở thành ngôn ngữ chính hoặc ngôn ngữ thứ hai. Tuy nhiên, theo ông Quang, Việt Nam cần chuẩn bị thận trọng bởi sự khác biệt về nền tảng ngôn ngữ giữa các vùng miền. Đặc biệt, ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, học sinh phải tiếp cận tiếng Anh như ngôn ngữ thứ ba, sau tiếng mẹ đẻ và tiếng Việt, dẫn đến mặt bằng tiếp thu không đồng đều.
Ông Quang nhấn mạnh yêu cầu chuẩn bị kỹ lưỡng đội ngũ giảng dạy, chương trình học, cơ sở vật chất và môi trường thực hành. Hiện cả nước còn thiếu trên 30.000 giáo viên tiếng Anh; một bộ phận giáo viên vẫn dạy theo phương pháp cũ, chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới. Bên cạnh đó, nhiều tài liệu giảng dạy chậm cập nhật, còn lúng túng khi tổ chức dạy các môn khoa học bằng tiếng Anh do thiếu giáo viên có chuyên môn song ngữ.
Về nền tảng ngôn ngữ, ông Quang cho rằng cần củng cố tiếng Việt – ngôn ngữ mẹ đẻ trước khi triển khai mạnh mẽ tiếng Anh để tránh gây rối loạn phát triển ngôn ngữ ở trẻ nhỏ. Ngoài ra, chương trình học chưa thật sự phù hợp giữa các vùng; chất lượng đầu tư cho giáo dục ngoại ngữ chênh lệch lớn do mặt bằng dân trí, điều kiện kinh tế khác nhau.
Cơ sở vật chất cũng là thách thức lớn. Nhiều trường vùng sâu, vùng xa vẫn thiếu phòng học tiếng Anh, thiết bị nghe nhìn, hoặc thậm chí thiếu cả phòng học kiên cố. Môi trường học tập và đánh giá chưa đồng bộ khiến việc đo lường tiến bộ của học sinh còn nhiều bất cập. Trong khi đó, các trường ở đô thị dễ dàng tiếp cận nguồn lực xã hội hóa, tạo lợi thế vượt trội.
Theo ông Quang, đề án muốn thành công phải được nghiên cứu sâu, trưng cầu phản biện rộng rãi và đầu tư dài hơi.
“Đây là nhiệm vụ quan trọng để nâng tầm con người Việt Nam trong thời đại mới, nhưng cần đi từng bước chắc chắn”, ông Quang nói.
Tạo môi trường học tiếng Anh thực chất và bền vững
Trường Tiểu học và THCS xã Xốp (Quảng Ngãi) quan tâm, chú trọng việc dạy tiếng Anh.
Đồng quan điểm, ông Trần Ngọc Mạnh, Hiệu trưởng Trường Tiểu học và THCS xã Xốp (Quảng Ngãi), cho rằng, đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai là nhiệm vụ lớn, đòi hỏi sự vào cuộc của toàn bộ hệ thống. Ông đề xuất các nhóm giải pháp trọng tâm nhằm nâng cao chất lượng dạy và học ngoại ngữ.
Về đội ngũ, cần đẩy mạnh bồi dưỡng chuyên môn, kỹ năng giao tiếp và phương pháp giảng dạy hiện đại cho giáo viên, nhất là ở vùng khó khăn. Việc mở rộng các khóa tập huấn, lớp học trực tuyến và chương trình giao lưu chuyên môn sẽ giúp giáo viên cập nhật kiến thức và nâng cao sự tự tin khi giảng dạy.
Về môi trường học tập, ông Mạnh nhấn mạnh vai trò của việc tạo “không gian tiếng Anh” trong trường học. Các câu lạc bộ tiếng Anh, ngày hội tiếng Anh, góc học tập, hoạt động ngoại khóa bằng tiếng Anh không chỉ tạo hứng thú mà còn giúp học sinh mạnh dạn sử dụng ngôn ngữ trong đời sống hằng ngày.
Về cơ sở vật chất, các trường cần được trang bị phòng học ngoại ngữ chuẩn, thiết bị nghe – nhìn, phần mềm học trực tuyến. Nguồn học liệu cũng phải phong phú, hấp dẫn và phù hợp với học sinh ở nhiều trình độ khác nhau, đặc biệt là trẻ vùng nông thôn, miền núi.
Về sự phối hợp giữa nhà trường – gia đình – xã hội, phụ huynh cần hiểu rõ tầm quan trọng của tiếng Anh để đồng hành cùng con. Bên cạnh đó, việc huy động nguồn lực xã hội hóa, sự tham gia của tổ chức, cá nhân sẽ góp phần thu hẹp khoảng cách giữa các địa phương.
Ở góc nhìn dài hạn, ông Mạnh cho rằng, tiếng Anh cần được xem như công cụ học tập mở rộng, đồng hành với các môn học khác, nhằm tăng tính ứng dụng và giúp học sinh hiểu rõ lợi ích thiết thực của ngoại ngữ.
“Học tiếng Anh không chỉ để thi, mà để mở cánh cửa vào cuộc sống”, ông Mạnh nói.
Tái hiện Hà Nội 12 ngày đêm rực lửa với ‘Khát vọng hoà bình’
GD&TĐ -Giữa sắc trời mùa đông, trưng bày “Khát vọng hòa bình” diễn ra tại Di tích Nhà tù Hỏa Lò mở ra hành trình trở về những ngày Hà Nội đỏ lửa năm 1972.
2025-11-26 09:48
'Sốc' với thiền hoạ tối giản cực hạn chỉ với trắng - đen và những khoảng trống
GD&TĐ -Là một trong những nghệ sĩ đặc biệt của nghệ thuật thiền họa đương đại, tranh của Trầm Kim Hoà khiến người xem không khỏi “sốc” vì tối giản cực hạn.
2025-11-26 09:47
Điều chỉnh chính sách lao động trong kỷ nguyên số
GD&TĐ - Nhiều chuyên gia đề xuất hoàn thiện khung pháp lý, đào tạo kỹ năng số và phát triển an sinh linh hoạt để bảo đảm việc làm trong chuyển đổi số.
2025-11-26 09:45
Thư viện biên giới và hành trình ‘xóa mù thông tin' giữa đại ngàn Trường Sơn
GD&TĐ - Giữa đại ngàn Trường Sơn, thư viện do Bộ đội Biên phòng Hướng Lập xây dựng đang giúp bà con và học sinh “xóa mù” thông tin, mở rộng tri thức.
2025-11-26 09:45
Điều kiện giảm 70% học phí
GD&TĐ - Độc giả hỏi về quy định đối tượng được giảm 70% học phí.
2025-11-26 09:45
Giúp học sinh cận nghèo khu vực đô thị tiếp cận môi trường học tập an toàn
GD&TĐ - Gần 3.000 học sinh các trường tiểu học trên địa bàn xã Đa Phúc, Hà Nội được hỗ trợ tiếp cận với môi trường học tập an toàn, chất lượng.
2025-11-26 09:44
Công bố nhiều di cảo quý của Thượng tướng Trần Văn Trà
GD&TĐ - Từ xứ Quảng, Thượng tướng Trần Văn Trà (1919 - 1996) sớm tham gia cách mạng và gắn bó trọn đời với sự nghiệp giải phóng dân tộc.
2025-11-26 09:44
Nà Bủng kiên trì nâng cao dân trí và bền bỉ xóa mù chữ nơi biên giới
GD&TĐ - Giữa gian khó của xã biên giới đặc biệt khó khăn, Nà Bủng đang bền bỉ thực hiện mục tiêu nâng cao dân trí, xóa mù chữ cho đồng bào.
2025-11-26 09:43
Đời sống người dân vùng cao Tuyên Quang đổi thay nhờ xóa mù chữ
GD&TĐ - Bằng quyết tâm chính trị và những cách làm sáng tạo, Tuyên Quang đã trở thành điểm sáng trong công tác xóa mù chữ vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
2025-11-26 09:43
Sơn Tùng M-TP chung tay cùng miền Trung, nâng mức ủng hộ lên con số 'khủng'
GD&TĐ - Hành động của Sơn Tùng M-TP nhanh chóng nhận được sự quan tâm và đánh giá cao từ công chúng.
Đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai: Cần lộ trình chắc chắn và đồng bộ