Khi thí sinh “rải” nguyện vọng để… yên tâm
Kỳ tuyển sinh đại học 2025 ghi nhận hơn 20% thí sinh đăng ký trên 10 nguyện vọng theo thống kê của Bộ GD&ĐT. Tuy nhiên, phần lớn các em chỉ trúng tuyển ở 1- 2 nguyện vọng đầu tiên, các nguyện vọng sau gần như chỉ để “cho vui” hoặc “cho an toàn”.
Với dự định thi vào khối trường quân đội và dự phòng thêm ngành kinh tế, em Ngô Toàn Diện, học sinh Trường THPT Hiệp Hòa số 3 (Bắc Ninh) cho rằng việc giới hạn là cần thiết.
“Theo em, giới hạn 5 đến 10 nguyện vọng là hợp lý. Mỗi bạn có năng lực và sở thích riêng, không nên đăng ký tràn lan. Việc có quá nhiều nguyện vọng khiến bọn em đôi khi không biết mình thực sự muốn gì. Nhiều bạn trong lớp em cũng lăn tăn vì lực học chưa tốt, nếu thêm giới hạn số lượng nguyện vọng thì việc xét tuyển đại học lại càng khó và khốc liệt”, Diện chia sẻ.
Không ít giáo viên THPT cũng đồng tình việc đăng ký quá nhiều không giúp tăng cơ hội đỗ, mà chỉ khiến học sinh thêm hoang mang, thiếu tập trung trong quá trình chọn ngành, chọn trường.
Giảm tổ hợp, không nên giảm nguyện vọng
Tuy nhiên, nhiều chuyên gia giáo dục lại lo ngại việc giới hạn có thể làm mất đi cơ hội học tập của học sinh vùng khó, ít thông tin.
TS. Lê Viết Khuyến, nguyên Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục đại học (Bộ GD&ĐT), cho rằng không nên giảm số nguyện vọng, mà nên siết lại tổ hợp xét tuyển - vốn đã “nở rộ” quá mức trong những năm gần đây.
“Năm nay có tới 344 tổ hợp xét tuyển, khiến tuyển sinh rối rắm, phức tạp. Thay vì giảm nguyện vọng, hãy quay lại dùng điểm thi tốt nghiệp THPT làm tiêu chí chính. Hệ thống hiện nay đủ mạnh để xử lý hàng triệu nguyện vọng trong chưa đến một giờ, không cần tính đến việc quá tải”, ông Khuyến phân tích.
Ông cho rằng việc đa dạng hóa tổ hợp môn khiến nhiều thí sinh và trường rơi vào tình trạng “trăm hoa đua nở”, đánh mất tính cạnh tranh thực chất. Giảm tổ hợp chứ không phải nguyện vọng mới là giải pháp căn cơ để tuyển sinh minh bạch và công bằng hơn.
Từ góc nhìn của các trường, ThS. Phạm Thái Sơn, Giám đốc Trung tâm Tuyển sinh và Truyền thông (Đại học Công thương TP. Hồ Chí Minh), nhận định việc giới hạn nguyện vọng nên linh hoạt theo từng cơ sở đào tạo.
“Không giới hạn giúp thí sinh an tâm, không phát sinh thêm chi phí. Nhưng nếu giới hạn, công tác tư vấn hướng nghiệp ở bậc phổ thông phải kỹ hơn nhiều. Học sinh cần được định hướng rõ trước khi chọn ngành”, ông Sơn nói.
Ông Sơn, cũng cho rằng, việc giới hạn nguyện vọng xét tuyển đại học là không cần thiết. “Điều cốt lõi không nằm ở số lượng nguyện vọng mà ở chất lượng đào tạo và uy tín của từng trường. Việc áp đặt mức giới hạn cứng có thể khiến thí sinh tập trung vào các trường tốp trên, gây khó khăn cho trường địa phương. Thay vì siết nguyện vọng, cần đẩy mạnh tư vấn hướng nghiệp giúp học sinh hiểu rõ năng lực, ngành học phù hợp và cơ hội việc làm để lựa chọn chính xác hơn”, ông Sơn bày tỏ.
Giải thích cho đề xuất giới hạn nguyện vọng, GS.TS. Nguyễn Tiến Thảo, Vụ trưởng Vụ Giáo dục Đại học (Bộ GD&ĐT) chia sẻ: “Khi thí sinh đăng ký quá nhiều, mục tiêu xét tuyển bị mờ nhạt. Nhiều em ỷ lại vì nghĩ “trượt trường này còn trường khác”, từ đó giảm động lực phấn đấu. Điều này làm lãng phí nguồn lực xã hội và khiến hệ thống xử lý thêm cồng kềnh”.
Theo ông Thảo, xét tuyển đại học không chỉ là “trò chơi xác suất”, mà phải giúp thí sinh xác định rõ đam mê và trách nhiệm với lựa chọn của mình.
Cùng quan điểm, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Kim Sơn nhận định: “Nhiều nguyện vọng chưa chắc đã đem lại nhiều cơ hội, mà có khi khiến thí sinh “tẩu hỏa nhập ma”. Giới hạn hợp lý sẽ giúp các em định hướng tốt hơn, không bị rối giữa hàng chục lựa chọn”.
Bộ GD&ĐT cho biết sẽ tiếp thu các ý kiến đóng góp để đưa ra phương án cuối cùng, đảm bảo hài hòa giữa quyền lựa chọn của thí sinh và tính gọn gàng, hiệu quả của hệ thống tuyển sinh.