Triển lãm “Hồi cố vọng lai”: Phác họa một lộ trình mỹ thuật Việt Nam hiện đại
Triển lãm “Hồi cố vọng lai”: Phác họa một lộ trình mỹ thuật Việt Nam hiện đại
2025/10/30 17:23
(NB&CL) Lấy hành trình sáng tạo của ba họa sĩ Lý Trực Sơn, Ca Lê Thắng và Đào Minh Tri làm tiền đề, triển lãm “Hồi cố vọng lai” soi chiếu và gợi mở một khung cảnh rộng hơn của mỹ thuật Việt Nam trong quá trình dịch chuyển, lai ghép và thích nghi.
Ba phong cách của một “thế hệ vàng”
Giữa những dòng chảy nghệ thuật hối hả, triển lãm “Hồi cố vọng lai” như một nhịp nghỉ, mời người xem chậm bước để nhìn lại một thời kỳ nghệ thuật gắn liền với sự thành hình của mỹ thuật đương đại Việt Nam qua thực hành nghệ thuật của ba hoạ sĩ Lý Trực Sơn, Ca Lê Thắng và Đào Minh Tri.
Theo giám tuyển Vũ Huy Thông, mục tiêu của triển lãm rất rõ ràng, đó là giới thiệu những gương mặt đại diện xuất sắc của thế hệ họa sĩ những năm 1960-1970. Ba họa sĩ cùng tốt nghiệp hệ Sơ trung 7 năm và Đại học 5 năm của Trường Cao đẳng Mỹ thuật Việt Nam - một “thế hệ vàng” của mỹ thuật hiện đại.
Nhà nghiên cứu Lý Đợi cho rằng, trong lịch sử mỹ thuật Việt Nam, sự xuất hiện của các “bộ tứ” luôn là dấu mốc đáng chú ý. Tại triển lãm này, nếu như không bị lỡ hẹn vì lý do cá nhân, mà có thêm sự góp mặt của họa sĩ Thành Chương như dự kiến ban đầu, thì có thể hình thành “bộ tứ” Sơn - Thắng - Tri - Chương, tạo nên thế hệ thứ 5 trong lịch sử các “bộ tứ” nổi bật của mỹ thuật Việt Nam.
Sinh ra và lớn lên tại Bến Tre, Ca Lê Thắng lấy đồng bằng sông Cửu Long làm mạch nguồn sáng tạo. Dòng sông, mùa nước nổi và cảnh quan phù sa không chỉ là đề tài mà trở thành một cơ thể sống, nơi nghệ thuật ghi nhận mối quan hệ giữa con người, thiên nhiên và thời gian. Chuỗi tranh “Mùa nước nổi” của ông mở rộng không gian ký ức và hiện tại, vừa ghi lại nhịp điệu thiên nhiên, vừa thể hiện tính thi ca và chất thơ của miền sông nước.
Giám tuyển Vũ Huy Thông cho rằng, suốt từ năm 1980 đến nay, họa sĩ Ca Lê Thắng chỉ vẽ về mùa nước nổi nhưng không giống như cách nhìn của mỗi chúng ta. Ông đã tìm được một tiếng nói khác, tìm được dấu ấn cá nhân của mình trong hành trình của mùa nước nổi ấy.
Còn theo giám tuyển Đỗ Tường Linh, hình tượng cá là trung tâm sáng tạo của Đào Minh Tri, nó vừa trữ tình, vừa siêu thực, vừa phản ánh mối quan hệ con người - thiên nhiên - vũ trụ. Biểu tượng cá trong tranh Đào Minh Tri vừa phản ánh lịch sử, vừa mở ra một vũ trụ quan, nơi thời gian và sự sống được cảm nhận xuyên suốt, đồng thời minh chứng cho khả năng hội nhập biểu tượng dân gian vào ngôn ngữ hiện đại mà không mất đi tính bản địa.
Trong khi đó, Lý Trực Sơn phát triển một vũ trụ từ đất - chất liệu khởi nguyên, vừa trần tục vừa thiêng liêng. Trước khi đến với đất, ông đã có một hành trình sâu đậm với sơn mài. Nhưng Lý Trực Sơn không đi theo hướng mô tả hay trang trí quen thuộc trong sơn mài mà tìm kiếm một khả năng biểu đạt trừu tượng sâu sắc hơn. Các tác phẩm sơn mài trừu tượng của ông là nỗ lực tái định nghĩa chất liệu truyền thống trong mỹ học đương đại, nơi trừu tượng không chỉ là hình thức mà là một cấu trúc tâm linh, mang tính biểu tượng và chiêm nghiệm.
Kiến tạo ngôn ngữ nghệ thuật Việt Nam
Theo giám tuyển Vũ Huy Thông, triển lãm “Hồi cố vọng lai” phác họa một lộ trình cô đọng của mỹ thuật Việt Nam hiện đại. Lấy hành trình sáng tạo của ba họa sĩ làm tiền đề, triển lãm soi chiếu và gợi mở một khung cảnh rộng hơn của mỹ thuật Việt Nam. Ở thập niên 1960-1970, khi dòng chủ lưu là hiện thực xã hội chủ nghĩa, mang nhiều tính chất tuyên truyền, tuy nhiên, dấu ấn cá nhân của các họa sĩ lúc này đã bắt đầu định hình - điều đó mang tới những đóng góp cụ thể của các ông cho mỹ thuật thời kỳ đổi mới, được ghi nhận vào cuối những năm 1980, đầu những năm 1990.
Công chúng tham quan triển lãm.
“Ba họa sĩ bước vào nghề từ cuối thập niên 1970 và thực sự tỏa sáng sau đổi mới (1986), nhưng họ đều chịu ảnh hưởng hoặc có nghiên cứu về mỹ thuật phương Tây từ rất sớm. Đây là điều không tự đến mà bắt nguồn từ mong muốn có một ngôn ngữ cá nhân của chính người họa sĩ, họ mong muốn tìm tòi vượt ra khỏi khuôn khổ đào tạo của nhà trường”, giám tuyển Vũ Huy Thông nói.
Ông Vũ Huy Thông cho biết thêm, điểm đặc biệt của “bộ tứ” Sơn - Thắng - Tri - Chương là họ cùng sinh năm 1949, chơi với nhau từ nhỏ, sau đó học tập cùng nhau tại Trường Cao đẳng Mỹ thuật Việt Nam (nay là Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam). Tuy nhiên, dù có một quá trình rất dài được đào tạo bài bản từ trường đại học, nhưng không có ai trong số họ sáng tác theo một ngôn ngữ được rèn luyện rất kỹ càng tới hơn 10 năm. Đặc biệt, họa sĩ Thành Chương ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường đã có một tư duy “lạ”, đó là ông luôn có cách làm rất khác trong các bài tập.
Chia sẻ về điều này, họa sĩ Thành Chương cho biết, văn học nghệ thuật cần phong cách cá nhân, nhưng trong thời kỳ bao cấp, dấu ấn cá nhân đó không được đề cao. Tất cả mọi thứ như một dàn đồng ca: ăn mặc giống nhau, nói năng giống nhau, đi đứng giống nhau, làm nghệ thuật cũng giống nhau.
“Đất nước bây giờ đổi mới, mở cửa, các bạn trẻ trong mọi lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực nghệ thuật, văn, thơ, nhạc, họa… đều được thoải mái, tự do, thích gì làm nấy. Nhưng trước đây, khi chưa đổi mới thì cuộc sống sáng tạo của anh em văn nghệ sĩ rất khó khăn. Mở cửa, đổi mới đã cho mỗi người được là chính mình”, họa sĩ Thành Chương cho biết.
Theo họa sĩ Thành Chương, trong những năm tháng đó, những người có cá tính như Đào Minh Tri, Lý Trực Sơn, Ca Lê Thắng rất vất vả. Nhưng họ đều là những người tài năng, đầy bản lĩnh và luôn tin tưởng những điều mình làm là đúng, không bao giờ từ bỏ, để đến bây giờ chúng ta có những tên tuổi đáng ghi danh vào lịch sử mỹ thuật.
Ở khía cạnh khác, giám tuyển Đỗ Tường Linh cho rằng, trong bối cảnh toàn cầu hóa, văn hóa và nghệ thuật vận hành trong các “mạng lưới liên tục”, nơi ký ức địa phương, vật liệu bản địa và kinh nghiệm toàn cầu không còn đối lập mà bổ sung lẫn nhau. 100 tác phẩm tại triển lãm cho thấy cách ba nghệ sĩ, mỗi người xuất phát từ một miền đất khác nhau, đã đồng thời tiếp nhận ảnh hưởng bên ngoài và khai thác ký ức, chất liệu, và biểu tượng bản địa.
Không chỉ có vậy, triển lãm “Hồi cố vọng lai” còn như một tấm “bản đồ” nghệ thuật, nơi những lớp địa phương, lịch sử và toàn cầu giao thoa, chồng lấn, từ đó hé lộ hành trình kiến tạo một ngôn ngữ nghệ thuật Việt Nam độc lập, vừa mang dấu ấn bản sắc, vừa đối thoại cùng thế giới. Không gian triển lãm, từ đó, đặt câu hỏi về di sản và sự tiếp nối, gợi những suy tưởng về bản sắc của mỹ thuật Việt Nam như thành quả của quá trình “dịch chuyển, lai ghép và thích nghi” - một bản sắc không ngừng vận động.
“Triển lãm “Hồi cố vọng lai” không chỉ ghi nhận hành trình sáng tạo của ba nghệ sĩ Lý Trực Sơn, Đào Minh Tri, Ca Lê Thắng mà còn mở ra một lăng kính để nhìn lại và định hình bản sắc nghệ thuật Việt Nam trong thời đại toàn cầu. Từ ký ức vùng miền, biểu tượng dân gian đến chất liệu và màu sắc trừu tượng, mỗi tác phẩm đều là minh chứng cho sự hội nhập, tiếp biến và tự khẳng định. Trong “không gian thứ ba” này, nghệ thuật Việt Nam không chỉ phản chiếu quá khứ mà còn định hình tương lai - nơi bản sắc bản địa và tư duy hiện đại gặp gỡ, va chạm và cùng nhau sinh sôi”, giám tuyển Đỗ Tường Linh chia sẻ.
Ba phong cách của một “thế hệ vàng”
Giữa những dòng chảy nghệ thuật hối hả, triển lãm “Hồi cố vọng lai” như một nhịp nghỉ, mời người xem chậm bước để nhìn lại một thời kỳ nghệ thuật gắn liền với sự thành hình của mỹ thuật đương đại Việt Nam qua thực hành nghệ thuật của ba hoạ sĩ Lý Trực Sơn, Ca Lê Thắng và Đào Minh Tri.
Theo giám tuyển Vũ Huy Thông, mục tiêu của triển lãm rất rõ ràng, đó là giới thiệu những gương mặt đại diện xuất sắc của thế hệ họa sĩ những năm 1960-1970. Ba họa sĩ cùng tốt nghiệp hệ Sơ trung 7 năm và Đại học 5 năm của Trường Cao đẳng Mỹ thuật Việt Nam - một “thế hệ vàng” của mỹ thuật hiện đại.
Nhà nghiên cứu Lý Đợi cho rằng, trong lịch sử mỹ thuật Việt Nam, sự xuất hiện của các “bộ tứ” luôn là dấu mốc đáng chú ý. Tại triển lãm này, nếu như không bị lỡ hẹn vì lý do cá nhân, mà có thêm sự góp mặt của họa sĩ Thành Chương như dự kiến ban đầu, thì có thể hình thành “bộ tứ” Sơn - Thắng - Tri - Chương, tạo nên thế hệ thứ 5 trong lịch sử các “bộ tứ” nổi bật của mỹ thuật Việt Nam.
Các diễn giả chia sẻ tại art talk trong khuôn khổ triển lãm “Hồi cố vọng lai”.
Sinh ra và lớn lên tại Bến Tre, Ca Lê Thắng lấy đồng bằng sông Cửu Long làm mạch nguồn sáng tạo. Dòng sông, mùa nước nổi và cảnh quan phù sa không chỉ là đề tài mà trở thành một cơ thể sống, nơi nghệ thuật ghi nhận mối quan hệ giữa con người, thiên nhiên và thời gian. Chuỗi tranh “Mùa nước nổi” của ông mở rộng không gian ký ức và hiện tại, vừa ghi lại nhịp điệu thiên nhiên, vừa thể hiện tính thi ca và chất thơ của miền sông nước.
Giám tuyển Vũ Huy Thông cho rằng, suốt từ năm 1980 đến nay, họa sĩ Ca Lê Thắng chỉ vẽ về mùa nước nổi nhưng không giống như cách nhìn của mỗi chúng ta. Ông đã tìm được một tiếng nói khác, tìm được dấu ấn cá nhân của mình trong hành trình của mùa nước nổi ấy.
Còn theo giám tuyển Đỗ Tường Linh, hình tượng cá là trung tâm sáng tạo của Đào Minh Tri, nó vừa trữ tình, vừa siêu thực, vừa phản ánh mối quan hệ con người - thiên nhiên - vũ trụ. Biểu tượng cá trong tranh Đào Minh Tri vừa phản ánh lịch sử, vừa mở ra một vũ trụ quan, nơi thời gian và sự sống được cảm nhận xuyên suốt, đồng thời minh chứng cho khả năng hội nhập biểu tượng dân gian vào ngôn ngữ hiện đại mà không mất đi tính bản địa.
Trong khi đó, Lý Trực Sơn phát triển một vũ trụ từ đất - chất liệu khởi nguyên, vừa trần tục vừa thiêng liêng. Trước khi đến với đất, ông đã có một hành trình sâu đậm với sơn mài. Nhưng Lý Trực Sơn không đi theo hướng mô tả hay trang trí quen thuộc trong sơn mài mà tìm kiếm một khả năng biểu đạt trừu tượng sâu sắc hơn. Các tác phẩm sơn mài trừu tượng của ông là nỗ lực tái định nghĩa chất liệu truyền thống trong mỹ học đương đại, nơi trừu tượng không chỉ là hình thức mà là một cấu trúc tâm linh, mang tính biểu tượng và chiêm nghiệm.
Kiến tạo ngôn ngữ nghệ thuật Việt Nam
Theo giám tuyển Vũ Huy Thông, triển lãm “Hồi cố vọng lai” phác họa một lộ trình cô đọng của mỹ thuật Việt Nam hiện đại. Lấy hành trình sáng tạo của ba họa sĩ làm tiền đề, triển lãm soi chiếu và gợi mở một khung cảnh rộng hơn của mỹ thuật Việt Nam. Ở thập niên 1960-1970, khi dòng chủ lưu là hiện thực xã hội chủ nghĩa, mang nhiều tính chất tuyên truyền, tuy nhiên, dấu ấn cá nhân của các họa sĩ lúc này đã bắt đầu định hình - điều đó mang tới những đóng góp cụ thể của các ông cho mỹ thuật thời kỳ đổi mới, được ghi nhận vào cuối những năm 1980, đầu những năm 1990.
Công chúng tham quan triển lãm.
“Ba họa sĩ bước vào nghề từ cuối thập niên 1970 và thực sự tỏa sáng sau đổi mới (1986), nhưng họ đều chịu ảnh hưởng hoặc có nghiên cứu về mỹ thuật phương Tây từ rất sớm. Đây là điều không tự đến mà bắt nguồn từ mong muốn có một ngôn ngữ cá nhân của chính người họa sĩ, họ mong muốn tìm tòi vượt ra khỏi khuôn khổ đào tạo của nhà trường”, giám tuyển Vũ Huy Thông nói.
Ông Vũ Huy Thông cho biết thêm, điểm đặc biệt của “bộ tứ” Sơn - Thắng - Tri - Chương là họ cùng sinh năm 1949, chơi với nhau từ nhỏ, sau đó học tập cùng nhau tại Trường Cao đẳng Mỹ thuật Việt Nam (nay là Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam). Tuy nhiên, dù có một quá trình rất dài được đào tạo bài bản từ trường đại học, nhưng không có ai trong số họ sáng tác theo một ngôn ngữ được rèn luyện rất kỹ càng tới hơn 10 năm. Đặc biệt, họa sĩ Thành Chương ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường đã có một tư duy “lạ”, đó là ông luôn có cách làm rất khác trong các bài tập.
Chia sẻ về điều này, họa sĩ Thành Chương cho biết, văn học nghệ thuật cần phong cách cá nhân, nhưng trong thời kỳ bao cấp, dấu ấn cá nhân đó không được đề cao. Tất cả mọi thứ như một dàn đồng ca: ăn mặc giống nhau, nói năng giống nhau, đi đứng giống nhau, làm nghệ thuật cũng giống nhau.
“Đất nước bây giờ đổi mới, mở cửa, các bạn trẻ trong mọi lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực nghệ thuật, văn, thơ, nhạc, họa… đều được thoải mái, tự do, thích gì làm nấy. Nhưng trước đây, khi chưa đổi mới thì cuộc sống sáng tạo của anh em văn nghệ sĩ rất khó khăn. Mở cửa, đổi mới đã cho mỗi người được là chính mình”, họa sĩ Thành Chương cho biết.
Theo họa sĩ Thành Chương, trong những năm tháng đó, những người có cá tính như Đào Minh Tri, Lý Trực Sơn, Ca Lê Thắng rất vất vả. Nhưng họ đều là những người tài năng, đầy bản lĩnh và luôn tin tưởng những điều mình làm là đúng, không bao giờ từ bỏ, để đến bây giờ chúng ta có những tên tuổi đáng ghi danh vào lịch sử mỹ thuật.
Ở khía cạnh khác, giám tuyển Đỗ Tường Linh cho rằng, trong bối cảnh toàn cầu hóa, văn hóa và nghệ thuật vận hành trong các “mạng lưới liên tục”, nơi ký ức địa phương, vật liệu bản địa và kinh nghiệm toàn cầu không còn đối lập mà bổ sung lẫn nhau. 100 tác phẩm tại triển lãm cho thấy cách ba nghệ sĩ, mỗi người xuất phát từ một miền đất khác nhau, đã đồng thời tiếp nhận ảnh hưởng bên ngoài và khai thác ký ức, chất liệu, và biểu tượng bản địa.
Không chỉ có vậy, triển lãm “Hồi cố vọng lai” còn như một tấm “bản đồ” nghệ thuật, nơi những lớp địa phương, lịch sử và toàn cầu giao thoa, chồng lấn, từ đó hé lộ hành trình kiến tạo một ngôn ngữ nghệ thuật Việt Nam độc lập, vừa mang dấu ấn bản sắc, vừa đối thoại cùng thế giới. Không gian triển lãm, từ đó, đặt câu hỏi về di sản và sự tiếp nối, gợi những suy tưởng về bản sắc của mỹ thuật Việt Nam như thành quả của quá trình “dịch chuyển, lai ghép và thích nghi” - một bản sắc không ngừng vận động.
“Triển lãm “Hồi cố vọng lai” không chỉ ghi nhận hành trình sáng tạo của ba nghệ sĩ Lý Trực Sơn, Đào Minh Tri, Ca Lê Thắng mà còn mở ra một lăng kính để nhìn lại và định hình bản sắc nghệ thuật Việt Nam trong thời đại toàn cầu. Từ ký ức vùng miền, biểu tượng dân gian đến chất liệu và màu sắc trừu tượng, mỗi tác phẩm đều là minh chứng cho sự hội nhập, tiếp biến và tự khẳng định. Trong “không gian thứ ba” này, nghệ thuật Việt Nam không chỉ phản chiếu quá khứ mà còn định hình tương lai - nơi bản sắc bản địa và tư duy hiện đại gặp gỡ, va chạm và cùng nhau sinh sôi”, giám tuyển Đỗ Tường Linh chia sẻ.
Dự kiến nhiều điều chỉnh trong Khung năng lực ngoại ngữ dùng cho Việt Nam
GD&TĐ - Ngày 25/11, Bộ GD&ĐT công bố dự thảo Thông tư ban hành Khung năng lực ngoại ngữ dùng cho Việt Nam.
2025-11-26 09:45
Thư viện biên giới và hành trình ‘xóa mù thông tin' giữa đại ngàn Trường Sơn
GD&TĐ - Giữa đại ngàn Trường Sơn, thư viện do Bộ đội Biên phòng Hướng Lập xây dựng đang giúp bà con và học sinh “xóa mù” thông tin, mở rộng tri thức.
2025-11-26 09:45
Điều kiện giảm 70% học phí
GD&TĐ - Độc giả hỏi về quy định đối tượng được giảm 70% học phí.
2025-11-26 09:45
Cả nước có bao nhiêu trường đào tạo ngành y và luật?
(CLO) Bắt đầu từ năm 2025, Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định chuẩn đầu vào cho ngành y và luật: Tổng điểm xét tuyển tối thiểu đạt 60% thang điểm tối đa, môn Toán và Văn trong tổ hợp xét tuyển từ 6 điểm trở lên.
2025-11-26 09:45
Giúp học sinh cận nghèo khu vực đô thị tiếp cận môi trường học tập an toàn
GD&TĐ - Gần 3.000 học sinh các trường tiểu học trên địa bàn xã Đa Phúc, Hà Nội được hỗ trợ tiếp cận với môi trường học tập an toàn, chất lượng.
2025-11-26 09:44
Nà Bủng kiên trì nâng cao dân trí và bền bỉ xóa mù chữ nơi biên giới
GD&TĐ - Giữa gian khó của xã biên giới đặc biệt khó khăn, Nà Bủng đang bền bỉ thực hiện mục tiêu nâng cao dân trí, xóa mù chữ cho đồng bào.
2025-11-26 09:43
Đời sống người dân vùng cao Tuyên Quang đổi thay nhờ xóa mù chữ
GD&TĐ - Bằng quyết tâm chính trị và những cách làm sáng tạo, Tuyên Quang đã trở thành điểm sáng trong công tác xóa mù chữ vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
2025-11-26 09:43
Sơn Tùng M-TP chung tay cùng miền Trung, nâng mức ủng hộ lên con số 'khủng'
GD&TĐ - Hành động của Sơn Tùng M-TP nhanh chóng nhận được sự quan tâm và đánh giá cao từ công chúng.
2025-11-26 09:43
Gương mặt cá tính trong hội họa và điêu khắc Đinh Phong
(CLO) Triển lãm "Hội họa và điêu khắc Đinh Phong" đánh dấu chặng đường sáng tạo của một gương mặt cá tính trong thực hành tạo hình đương đại.
2025-11-26 09:42
Xóa mù chữ, mở cánh cửa tri thức cho phụ nữ vùng cao
GD&TĐ - Nhiều phụ nữ người Mông, Dao ở Tuyên Quang sau khi hoàn thành lớp xóa mù chữ đã tự tin hơn, biết áp dụng kiến thức vào đời sống, sản xuất.