Triết lý giáo dục trong kỷ nguyên số: Tầm nhìn thời đại của Nghị quyết 71-NQ/TW
2025/09/12 21:55
(CLO) Nghị quyết 71-NQ/TW tiếp nối và xác lập tầm nhìn triết lý mới: hệ thống mở – liên thông – học tập suốt đời gắn chặt chuyển đổi số với đổi mới quản trị; định vị giáo dục đại học là nòng cốt phát triển nhân lực trình độ cao, giáo dục nghề nghiệp là trụ cột hình thành lực lượng lao động kỹ năng gắn với thị trường.
Thế giới đang bước vào một kỷ nguyên phát triển mạnh mẽ chưa từng có với sự bùng nổ của công nghệ số, trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, Internet vạn vật và các nền tảng kết nối toàn cầu. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang làm thay đổi căn bản cấu trúc kinh tế, phương thức sản xuất, hình thức giao tiếp và đặc biệt là cách con người tiếp cận, xử lý và ứng dụng tri thức.
Trong bối cảnh đó, giáo dục - với tư cách là nền tảng phát triển con người và động lực then chốt cho phát triển quốc gia đang đứng trước yêu cầu đổi mới sâu sắc về tư duy, nội dung, phương pháp và mô hình tổ chức.
Những phương thức dạy - học truyền thống đang dần bộc lộ hạn chế trong việc đáp ứng nhu cầu học tập linh hoạt, cá nhân hóa và suốt đời của người học trong môi trường số hóa toàn diện. Đồng thời, năng lực công dân số, tư duy phản biện, sáng tạo và thích ứng nhanh với biến đổi trở thành yêu cầu thiết yếu đối với nguồn nhân lực hiện đại.
Các chính sách hiện hành của Đảng và Nhà nước đang từng bước thể chế hóa những tư tưởng chủ đạo của yêu cầu thực tiễn, làm nền tảng để xây dựng một nền giáo dục mở, linh hoạt, hiện đại và nhân văn. Do vậy, triết lý giáo dục thời đại số không chỉ là định hướng học thuật mà còn là kim chỉ nam cho toàn bộ hệ thống giáo dục trong việc hình thành những thế hệ công dân mới chủ động, sáng tạo và nhân văn.
Nghị quyết 71-NQ/TW mới được ban hành ngày 22/8/2025, đã kế thừa và xác lập một tầm nhìn triết lý mới cho giáo dục Việt Nam trong thời đại số phù hợp với hệ thống mở – liên thông – học tập suốt đời, gắn chặt chuyển đổi số với đổi mới mô hình quản trị, giáo dục đại học là nòng cốt phát triển nhân lực trình độ cao và giáo dục nghề nghiệp là trụ cột hình thành lực lượng lao động kỹ năng, thích ứng nhanh với thị trường.
Do vậy, việc xây dựng và khẳng định một triết lý giáo dục phù hợp với thời đại số là điều cần thiết, nhằm định hướng cho hệ thống chính sách giáo dục - đào tạo phát triển một cách toàn diện, bền vững, hội nhập nhưng vẫn giữ vững bản sắc dân tộc.
Trong những năm gần đây, nhiều văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà nước đã thể hiện rõ các định hướng đổi mới giáo dục phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ chuyển đổi số. Nghị quyết Trung ương 29-NQ/TW (2013) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, Nghị quyết Trung ương 52-NQ/TW (2019) của Bộ Chính trị, các Nghị quyết 29/2021/NQ-CP về chuyển đổi số quốc gia, Đề án 1009/QĐ-TTg năm 2022 về phát triển văn hóa đọc trong cộng đồng giai đoạn 2022-2026 đã đặt nền móng cho triết lý giáo dục thời đại số – một định hướng tư duy mang tính chiến lược để phát triển con người và đất nước trong kỷ nguyên số tại Việt Nam.
Giáo dục Việt Nam mang sứ mệnh “Khai phóng - Nhân bản và Phụng sự”.
Đặc biệt, Nghị quyết 71-NQ/TW ban hành ngày 22/8/2025 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo ra đời trong bối cảnh thực tiễn đất nước vươn mình trong kỷ nguyên mới, có sự đồng bộ với Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24/1/2025 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế trong tình hình mới, bổ sung cho Nghị quyết số 29-NQ/TW và Kết luận số 91-KL/TW ngày 12/8/2024 của Bộ Chính trị về yêu cầu tiếp tục đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đặc biệt trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; đã hình thành nên những tư tưởng chủ đạo của các chính sách của Đảng và Nhà nước về triết lý giáo dục trong thời đại số, làm nền tảng cho một triết lý giáo dục mang tính tiến bộ, nhân văn, hiện đại và thích ứng với thời đại số của nền giáo dục Việt Nam mang sứ mệnh “Khai phóng - Nhân bản và Phụng sự”.
Giáo dục là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển đất nước số trong kỷ nguyên mới
Trong các văn kiện của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, Nghị quyết 71-NQ/TW về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo, tư tưởng “giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, quyết định tương lai dân tộc”, được xác định rõ ràng và nhất quán.
Giáo dục không chỉ là lĩnh vực quan trọng hàng đầu mà còn là nền tảng và động lực phát triển bền vững đất nước, đặc biệt trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và quá trình chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu. Chuyển đổi số quốc gia đòi hỏi nguồn nhân lực có trình độ cao, kỹ năng số, tư duy phản biện và năng lực sáng tạo - những phẩm chất chỉ có thể được hình thành và phát triển thông qua một nền giáo dục tiên tiến, hiện đại và mang tính mở.
Đầu tư cho giáo dục chính là đầu tư cho tương lai.
Do đó, giáo dục giữ vai trò trung tâm trong chiến lược xây dựng đất nước số, xã hội số và công dân số. Đây là chìa khóa để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, rút ngắn khoảng cách phát triển và chủ động hội nhập quốc tế.
Đảng và Nhà nước ta đã và đang ban hành nhiều chính sách ưu tiên phát triển giáo dục thích ứng với thời đại số, thể hiện qua việc đầu tư mạnh mẽ vào hạ tầng công nghệ giáo dục, xây dựng hệ sinh thái học tập số, đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy theo hướng phát triển phẩm chất và năng lực người học.
Việc thúc đẩy chuyển đổi số trong giáo dục không chỉ là ứng dụng công nghệ, mà là đổi mới toàn diện cách dạy, cách học, cách quản lý và đánh giá chất lượng giáo dục. Tư tưởng triết lý giáo dục là quốc sách hàng đầu, trong thời đại số, càng có ý nghĩa chiến lược sâu sắc, không thể có một nền kinh tế số phát triển nếu thiếu một nền giáo dục số tiên tiến. Đầu tư cho giáo dục chính là đầu tư cho tương lai, là cách hiệu quả và bền vững nhất để đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững và bao trùm.
Giáo dục không chỉ là truyền đạt kiến thức mà là phát triển con người toàn diện và lấy người học làm trung tâm
Triết lý giáo dục trong thời đại số nhấn mạnh việc chuyển từ mô hình “dạy để biết” sang “dạy để làm, để chung sống và để phát triển”.
Nghị quyết 29/NQ-TW nêu rõ: “Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học”; Nghị quyết 71-NQ/TW cũng đã đưa triết lý giáo dục con người toàn diện đức, trí, thể, mỹ, giáo dục vì con người và con người là chủ thể của giáo dục.
Trong một thế giới nơi kiến thức thay đổi từng ngày, điều quan trọng không phải là ghi nhớ mà là khả năng học tập, thích ứng và sáng tạo không ngừng. Triết lý giáo dục thời đại số trong các chỉ thị, nghị quyết cũng nhấn mạnh đến văn hóa đọc là một phần không thể thiếu của giáo dục toàn diện.
Giáo dục thời đại số không chỉ là trang bị kỹ năng số, mà còn là nuôi dưỡng tư duy phản biện, khả năng hiểu biết sâu và thái độ học thuật nghiêm túc những điều được hình thành thông qua đọc có chiều sâu. Do vậy, đọc sách không chỉ là một kỹ năng, mà là một giá trị sống nền tảng cho một xã hội tri thức, học tập suốt đời và phát triển bền vững.
Người học không còn là đối tượng tiếp thu tri thức một chiều mà trở thành chủ thể tích cực trong quá trình học tập.
Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư và chuyển đổi số quốc gia, phát triển văn hóa đọc không chỉ là chính sách văn hóa, mà còn là định hướng giáo dục sâu sắc. Đó là giáo dục thông qua đọc, lấy việc đọc làm trung tâm để phát triển năng lực tự học, tự chủ, tự sáng tạo của mỗi người.
Triết lý giáo dục thời đại số được thể hiện rõ nét trong đề án 1009/QĐ-TTg chính là: học để đọc – đọc để hiểu – hiểu để làm chủ chính mình và tương lai. Đó là nền tảng để xây dựng một xã hội học tập, xã hội tri thức, và xã hội số phát triển bền vững.
Chính sách giáo dục hiện nay chuyển mạnh từ truyền đạt kiến thức sang phát triển phẩm chất, năng lực. Học sinh không chỉ học để biết, mà học để làm, học để cùng chung sống và học để tự khẳng định mình trong môi trường số đầy biến động.
Đây là bước chuyển từ giáo dục định hướng nội dung sang giáo dục định hướng năng lực - cốt lõi của triết lý giáo dục hiện đại. Việc lấy người học làm trung tâm không chỉ là định hướng về phương pháp giảng dạy mà còn là kim chỉ nam trong thiết kế chương trình, đổi mới kiểm tra đánh giá, xây dựng môi trường học tập an toàn, thân thiện và sáng tạo.
Đây cũng là tiền đề để hình thành một xã hội học tập, trong đó mỗi cá nhân đều có cơ hội phát triển tối đa tiềm năng của mình, góp phần xây dựng một quốc gia số với nền giáo dục nhân văn, khai phóng và hội nhập.
Triết lý giáo dục hiện đại, đặc biệt trong thời đại số, nhấn mạnh đến việc lấy người học làm trung tâm - một tư tưởng xuyên suốt trong các chính sách giáo dục của Đảng và Nhà nước ta. Trong đó, người học không còn là đối tượng tiếp thu tri thức một chiều mà trở thành chủ thể tích cực trong quá trình học tập, phát triển và tự hoàn thiện.
Song song với việc phát triển năng lực, giáo dục hiện đại thời đại số còn chú trọng bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, lý tưởng sống, tinh thần trách nhiệm với cộng đồng và khả năng thích ứng với sự thay đổi nhanh chóng của xã hội.
Trong thời đại số, khi môi trường học tập trở nên mở, linh hoạt và đa chiều, yêu cầu về phẩm chất công dân toàn cầu, bản lĩnh văn hóa và đạo đức nghề nghiệp càng trở nên cấp thiết.
Giáo dục mở và học tập suốt đời là định hướng chiến lược và là xu thế tất yếu trong thời đại số
Nghị quyết 29-NQ/TW, 52-NQ/TW (2019) nhấn mạnh, với sự hỗ trợ của công nghệ, giáo dục số mở ra cơ hội học tập mọi lúc, mọi nơi. Nghị quyết 71-NQ/TW cũng đã quán triệt chuyển đổi số hệ sinh thái giáo dục: hồ sơ học tập suốt đời, dữ liệu dùng chung, học liệu mở.
Học tập không còn giới hạn trong lớp học truyền thống mà mở rộng đến mọi tầng lớp xã hội, từ học sinh đến người lao động. Triết lý giáo dục thời đại số thúc đẩy xã hội học tập, nơi mỗi công dân đều là người học chủ động, liên tục và có khả năng làm chủ tri thức.
Điều này phản ánh một triết lý học tập mới là giáo dục không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian, và mỗi người dân đều có thể trở thành công dân học tập suốt đời, thông qua các công cụ số. Đây là bước tiến lớn trong việc xóa bỏ rào cản tiếp cận tri thức, đặc biệt với người dân ở vùng sâu, vùng xa.
Chuyển đổi số trong giáo dục là xóa bỏ rào cản về không gian, thời gian và điều kiện kinh tế trong tiếp cận tri thức.
Tư tưởng chỉ đạo của các Nghị quyết TW, các chính sách của Đảng và Nhà nước cũng đã nhấn mạnh việc “phát triển hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời”, điều này phản ánh một triết lý mới: học tập không còn giới hạn trong khuôn khổ nhà trường, cũng không dừng lại ở một giai đoạn nào đó của cuộc đời.
Trong thế giới số, nơi tri thức biến đổi từng ngày, người học cần được trang bị năng lực tự học, học từ nhiều nguồn, học liên tục để không bị tụt lại phía sau.
Chính sách giáo dục hiện hành của Đảng và Nhà nước đã thể hiện rõ định hướng xây dựng xã hội học tập, trong đó mọi người dân, không phân biệt độ tuổi, giới tính, điều kiện kinh tế hay nơi cư trú, đều có cơ hội được học tập suốt đời, tiếp cận với tri thức một cách bình đẳng.
Việc triển khai hệ thống giáo dục mở, linh hoạt, ứng dụng công nghệ số vào dạy và học chính là đòn bẩy quan trọng giúp hiện thực hóa mục tiêu này. Chuyển đổi số trong giáo dục không chỉ là hiện đại hóa công cụ và phương pháp giảng dạy, mà còn là xóa bỏ rào cản về không gian, thời gian và điều kiện kinh tế trong tiếp cận tri thức.
Nhờ đó, người học ở vùng sâu, vùng xa, người lao động, người khuyết tật… đều có thể tham gia học tập thông qua các nền tảng trực tuyến, khóa học mở, tài nguyên giáo dục số và các chương trình học tập từ xa.
Bên cạnh đó, triết lý “học tập suốt đời” cũng được cụ thể hóa trong hệ thống chính sách và quy hoạch phát triển giáo dục quốc gia, như Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2021-2030, với tầm nhìn đến năm 2045. Các chương trình khuyến học, khuyến tài, xây dựng cộng đồng học tập cấp xã, đào tạo lại và nâng cao kỹ năng cho người lao động đang góp phần quan trọng trong việc lan tỏa văn hóa học tập rộng khắp trong toàn xã hội.
Giáo dục là động lực và nền tảng để dẫn dắt chuyển đổi số, gắn với thị trường lao động, đổi mới sáng tạo
Trong thời đại số, giáo dục không thể tách rời thực tế; người học cần được trang bị những kỹ năng ứng dụng công nghệ, tư duy số, làm việc nhóm và sáng tạo, đáp ứng nhu cầu không ngừng biến động của thị trường lao động. Do vậy, giáo dục phải trở thành cầu nối giữa nhà trường, doanh nghiệp và xã hội. Không chỉ là lĩnh vực cần thích ứng, giáo dục trong thời đại số được định vị là trung tâm và động lực của chuyển đổi số quốc gia.
Các NQTW khẳng định cần “ưu tiên phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao” như một trụ cột phát triển. Điều này cho thấy giáo dục không chỉ đi sau mà phải đi trước, dẫn dắt sự phát triển của khoa học công nghệ và kinh tế số. Triết lý giáo dục thời đại số vì thế đặt mục tiêu phát triển những con người sáng tạo, chủ động, có khả năng học hỏi và thích ứng linh hoạt.
Tinh thần Nghị quyết 71-NQ/TW cũng nhắm tập trung đột phá thông qua việc nâng tầm các cơ sở giáo dục đại học thực sự trở thành các trung tâm nghiên cứu, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, khởi nghiệp của quốc gia và của các vùng, tiến đến hội nhập quốc tế; cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho các ngành, lĩnh vực trọng điểm quốc gia và khu vực.
Giáo dục Việt Nam thực sự trở thành các trung tâm nghiên cứu, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, khởi nghiệp của quốc gia và của các vùng, tiến đến hội nhập quốc tế.
Trong bối cảnh việc làm và kỹ năng lao động thay đổi nhanh chóng, triết lý giáo dục thời đại số yêu cầu gắn chặt giáo dục với thực tiễn, thị trường lao động, đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp. Các NQTW cũng đã đề ra nhiệm vụ “khuyến khích đổi mới sáng tạo trong giáo dục” – thể hiện quan điểm: người học không chỉ tiếp nhận tri thức mà còn phải biết tạo ra tri thức mới, biết giải quyết vấn đề và thích ứng với biến động.
Một trong những tư tưởng chủ đạo thể hiện rõ trong các chính sách giáo dục hiện hành là gắn giáo dục với thực tiễn đời sống, nhu cầu của thị trường lao động và quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng. Trong thời đại số, giáo dục không thể đứng ngoài dòng chảy phát triển của nền kinh tế - xã hội, mà cần chủ động thích ứng, dẫn dắt và tạo động lực cho sự đổi mới và phát triển.
Ngoài ra, các chính sách của Đảng và Nhà nước đã nhấn mạnh yêu cầu đổi mới nội dung, chương trình đào tạo theo hướng gắn với yêu cầu thực tiễn, lấy nhu cầu xã hội làm thước đo chất lượng đào tạo, đặc biệt là trong Nghị quyết 71-NQ/TW và các chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2025-2030 và tầm nhìn đến 2045.
Giáo dục không chỉ cung cấp kiến thức hàn lâm, mà cần trang bị cho người học năng lực làm việc thực tế, kỹ năng nghề nghiệp, kỹ năng số, tư duy khởi nghiệp và năng lực thích ứng với sự biến đổi nhanh chóng của thị trường lao động. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế cũng trở thành một yếu tố không thể tách rời trong chiến lược phát triển giáo dục.
Việc xây dựng các chương trình đào tạo song ngữ, liên kết đào tạo quốc tế, công nhận văn bằng giữa các quốc gia và thúc đẩy trao đổi sinh viên, giảng viên… chính là biểu hiện cụ thể của triết lý giáo dục hướng đến công dân toàn cầu - những người có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế, có hiểu biết liên văn hóa, và tôn trọng sự đa dạng.
Đặc biệt, quá trình chuyển đổi số giúp rút ngắn khoảng cách giữa giáo dục và thị trường lao động thông qua các nền tảng kết nối đào tạo - việc làm, mô hình học kết hợp, đào tạo theo chuẩn đầu ra và khung năng lực nghề nghiệp. Nhờ đó, người học có thể dễ dàng cập nhật kiến thức, kỹ năng phù hợp với nhu cầu thị trường và xu hướng phát triển nghề nghiệp trong tương lai.
Liên kết đào tạo quốc tế, công nhận văn bằng giữa các quốc gia và thúc đẩy trao đổi sinh viên, giảng viên.
Tư tưởng “giáo dục gắn với thực tiễn, thị trường lao động và hội nhập quốc tế” chính là lời khẳng định về một nền giáo dục mở, linh hoạt, thích ứng và sáng tạo - nền giáo dục không chỉ phục vụ mục tiêu cá nhân mà còn góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và thúc đẩy tiến trình hiện đại hóa, số hóa đất nước.
Đảm bảo công bằng, dân chủ, hội nhập giáo dục và học tập suốt đời cho mọi người dân và đối tượng yếu thế
Triết lý giáo dục thời đại số không chỉ phục vụ người giỏi, người có điều kiện mà hướng tới bình đẳng trong tiếp cận tri thức, đặc biệt là với học sinh vùng sâu, vùng xa. Nhờ công nghệ, học sinh ở bất cứ đâu cũng có thể tiếp cận chất lượng giáo dục ngang bằng. Đồng thời, giáo dục Việt Nam cần hòa mình vào dòng chảy tri thức toàn cầu nhưng vẫn giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
Một điểm đặc biệt nhân văn trong triết lý giáo dục thời đại số là tinh thần bao trùm và công bằng trong tiếp cận tri thức. Các NQTW yêu cầu phải “thu hẹp khoảng cách số giữa các vùng miền, nhóm dân cư, giới tính”. Công nghệ không chỉ là công cụ mà còn là cơ hội để mọi người, dù ở thành thị hay nông thôn, đều có thể học tập, phát triển bản thân và đóng góp vào sự phát triển chung, “Bảo đảm mọi người dân đều được tiếp cận các nền tảng giáo dục số một cách bình đẳng".
Môi trường học tập công bằng, dễ tiếp cận cho mọi đối tượng, nhất là nhóm yếu thế.
Triết lý giáo dục thời đại số không bỏ ai lại phía sau; việc số hóa giáo dục không chỉ dành cho người có điều kiện, mà phải bảo đảm môi trường học tập công bằng, dễ tiếp cận cho mọi đối tượng, nhất là nhóm yếu thế. Triết lý giáo dục trong thời đại số nhấn mạnh giáo dục không còn là trách nhiệm riêng của nhà trường, mà là kết quả của sự liên kết giữa các chủ thể trong xã hội, nhằm phát triển năng lực thực tế, đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động số.
Chuyển đổi số là động lực và là phương thức đổi mới căn bản toàn diện giáo dục đào tạo
Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và sự phát triển nhanh chóng của khoa học - công nghệ, Đảng và Nhà nước xác định chuyển đổi số không chỉ là một xu hướng tất yếu mà còn là động lực quan trọng và là phương thức đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Tư tưởng này được thể hiện rõ trong nhiều văn kiện chính sách quan trọng, như Nghị quyết số 52-NQ/TW về chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Chương trình chuyển đổi số quốc gia, và Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2021-2030, Nghị quyết 71-NQ/TW về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo.
Chuyển đổi số trong giáo dục không đơn thuần là việc số hóa tài liệu hay triển khai dạy học trực tuyến, mà là một quá trình cải cách sâu rộng từ triết lý giáo dục, mục tiêu đào tạo đến nội dung, phương pháp giảng dạy, quản trị nhà trường và mô hình tổ chức giáo dục. Đây là sự thay đổi toàn diện để thích ứng với nhu cầu học tập đa dạng, linh hoạt và cá nhân hóa trong thời đại số.
Nhờ ứng dụng công nghệ số, người học có thể tiếp cận tri thức mọi lúc, mọi nơi thông qua các nền tảng học tập trực tuyến, thư viện số, hệ thống học liệu mở. Giáo viên chuyển từ vai trò “truyền thụ kiến thức” sang “người hướng dẫn, hỗ trợ học tập”, giúp học sinh phát triển tư duy phản biện, sáng tạo và năng lực tự học suốt đời.
Các chính sách hiện hành đang từng bước tạo hành lang pháp lý và nguồn lực để thúc đẩy chuyển đổi số giáo dục.
Đồng thời, chuyển đổi số cũng giúp quản lý giáo dục trở nên minh bạch, hiệu quả và dựa trên dữ liệu, từ đó nâng cao chất lượng toàn hệ thống. Các chính sách hiện hành đang từng bước tạo hành lang pháp lý và nguồn lực để thúc đẩy chuyển đổi số giáo dục: phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ, bồi dưỡng năng lực số cho đội ngũ nhà giáo, xây dựng kho học liệu số, và đặc biệt là đảm bảo an toàn, bình đẳng trong tiếp cận công nghệ cho mọi đối tượng học sinh - bao gồm học sinh vùng sâu, vùng xa, người yếu thế.
Tư tưởng "chuyển đổi số là động lực và phương thức đổi mới căn bản giáo dục" không chỉ phản ánh quyết tâm của Đảng và Nhà nước trong quá trình hiện đại hóa giáo dục, mà còn thể hiện một triết lý sâu sắc: giáo dục cần song hành với đổi mới công nghệ để nâng tầm con người Việt Nam trong kỷ nguyên số - thông minh hơn, sáng tạo hơn, và hội nhập hơn.
Xây dựng nền giáo dục mở, linh hoạt, chất lượng cao và có khả năng thích ứng trong thời đại số
Trong thời đại số - thời đại của tri thức, kết nối và biến đổi không ngừng - Đảng và Nhà nước đã xác định rõ yêu cầu cấp thiết là phải xây dựng một nền giáo dục mở, linh hoạt, chất lượng cao và có khả năng thích ứng với mọi hoàn cảnh, mọi đối tượng và mọi trình độ phát triển. Đây không chỉ là xu thế phát triển toàn cầu mà còn là sự lựa chọn mang tính chiến lược để thực hiện triết lý giáo dục tiến bộ, nhân văn và hiện đại.
Giáo dục mở là nền giáo dục trao quyền học tập cho mọi người, không giới hạn bởi độ tuổi, thời gian, không gian hay hình thức học. Chính sách hiện hành đã khuyến khích phát triển các mô hình học tập linh hoạt như đào tạo trực tuyến, đào tạo từ xa, học tập qua trải nghiệm thực tiễn, công nhận kết quả học tập không chính quy, phi chính quy.
Tư tưởng này nhằm tạo ra một hệ sinh thái học tập rộng lớn, nơi mỗi người có thể học tập suốt đời, tự chủ lựa chọn nội dung, phương thức và tiến độ học phù hợp với điều kiện của bản thân.
Mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục luôn được đặt ở vị trí trung tâm trong mọi chính sách.
Tính linh hoạt còn thể hiện ở việc đa dạng hóa chương trình đào tạo, liên thông giữa các bậc học, các trình độ giáo dục, cũng như giữa giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học. Điều này giúp người học dễ dàng chuyển đổi định hướng nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu thay đổi nhanh chóng của thị trường lao động và nền kinh tế số.
Song song với đó, mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục luôn được đặt ở vị trí trung tâm trong mọi chính sách. Đổi mới kiểm tra đánh giá, phát triển đội ngũ giáo viên theo chuẩn nghề nghiệp, tăng cường tự chủ đại học, kiểm định chất lượng độc lập, ứng dụng công nghệ trong dạy - học - quản lý... là những bước đi quan trọng nhằm đảm bảo chất lượng đầu ra, đáp ứng các chuẩn mực trong nước và quốc tế.
Khả năng thích ứng - một yếu tố sống còn trong thế giới liên tục biến động - được xem là năng lực cốt lõi mà nền giáo dục hiện đại phải tạo dựng cho người học. Tư tưởng này đòi hỏi giáo dục không chỉ truyền thụ kiến thức mà còn phải rèn luyện cho người học năng lực giải quyết vấn đề, thích nghi với thay đổi, sáng tạo trong tư duy và hành động.
Như vậy, xây dựng nền giáo dục mở, linh hoạt, chất lượng cao và có khả năng thích ứng chính là biểu hiện sinh động của triết lý giáo dục lấy con người làm trung tâm, đồng thời phản ánh tư duy hiện đại của Đảng và Nhà nước trong việc đưa giáo dục trở thành trụ cột của phát triển bền vững, đổi mới sáng tạo và hội nhập quốc tế sâu rộng trong thời đại số.
Trong bối cảnh xã hội đang bước vào kỷ nguyên số, với sự bùng nổ mạnh mẽ của công nghệ thông tin và truyền thông, triết lý giáo dục trong thời đại số đã trở thành một yêu cầu không thể thiếu để đảm bảo sự phát triển bền vững của đất nước.
Đảng và Nhà nước ta đã có những nghị quyết, những chiến lược và chính sách giáo dục rõ ràng và đồng bộ, khẳng định vai trò then chốt của giáo dục trong việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đồng thời góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia trong nền kinh tế toàn cầu.
Nghị quyết 71-NQ/TW không chỉ củng cố nền tảng triết lý “giáo dục mở – số hóa – liên thông – lấy người học làm trung tâm” mà còn đặt ra cơ chế thực thi: trao quyền có điều kiện (tự chủ) và giải trình bằng dữ liệu và kiểm định. Đây là con đường để hệ thống giáo dục Việt Nam vừa giữ bản sắc, vừa hội nhập sâu, nâng cao năng lực cạnh tranh trong kỷ nguyên số.
Triết lý giáo dục trong thời đại số đã trở thành một yêu cầu không thể thiếu để đảm bảo sự phát triển bền vững của đất nước.
Các tư tưởng chủ đạo trong chính sách giáo dục hiện hành thể hiện sự quyết tâm đổi mới mạnh mẽ trong tất cả các lĩnh vực của giáo dục: từ xây dựng nền giáo dục mở, linh hoạt và chất lượng cao, đến gắn giáo dục với thực tiễn và nhu cầu của thị trường lao động, từ thúc đẩy công bằng trong tiếp cận giáo dục, đến chuyển đổi số như động lực và phương thức đổi mới căn bản giáo dục.
Những tư tưởng này không chỉ phản ánh tầm nhìn chiến lược của Đảng và Nhà nước mà còn là sự xác định đúng đắn nền tảng lý luận và triết lý sâu sắc về vai trò của giáo dục trong việc phát triển con người - nguồn tài nguyên quý giá nhất trong kỷ nguyên số.
Tuy nhiên, để triết lý giáo dục trong thời đại số thực sự đi vào cuộc sống và đạt được hiệu quả, cần phải có những nỗ lực không ngừng trong việc triển khai đồng bộ các Nghị quyết – chính sách của Đảng và Nhà nước, các giải pháp từ đầu tư vào cơ sở hạ tầng công nghệ, đào tạo đội ngũ giáo viên có năng lực số, xây dựng các chương trình giáo dục linh hoạt và đáp ứng nhu cầu thay đổi nhanh chóng của thị trường lao động.
Bên cạnh đó, cũng cần đặc biệt chú trọng đảm bảo công bằng trong tiếp cận giáo dục cho tất cả mọi đối tượng học sinh, sinh viên, người lao động chưa thông qua đào tạo nhằm không để ai bị bỏ lại phía sau trong sự chuyển mình mạnh mẽ của đất nước trong kỷ nguyên mới.
Triết lý giáo dục trong thời đại số sẽ là nền tảng vững chắc để xây dựng một xã hội học tập, một đất nước phát triển toàn diện, công bằng, văn minh và thịnh vượng.
Thế giới đang bước vào một kỷ nguyên phát triển mạnh mẽ chưa từng có với sự bùng nổ của công nghệ số, trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, Internet vạn vật và các nền tảng kết nối toàn cầu. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang làm thay đổi căn bản cấu trúc kinh tế, phương thức sản xuất, hình thức giao tiếp và đặc biệt là cách con người tiếp cận, xử lý và ứng dụng tri thức.
GS.TSKH Dương Quý Sỹ, Chủ tịch Hội đồng Trường Cao đẳng Y tế Lâm Đồng, Ủy viên Hội đồng Quốc gia Giáo dục & Phát triển nhân lực.
Trong bối cảnh đó, giáo dục - với tư cách là nền tảng phát triển con người và động lực then chốt cho phát triển quốc gia đang đứng trước yêu cầu đổi mới sâu sắc về tư duy, nội dung, phương pháp và mô hình tổ chức.
Những phương thức dạy - học truyền thống đang dần bộc lộ hạn chế trong việc đáp ứng nhu cầu học tập linh hoạt, cá nhân hóa và suốt đời của người học trong môi trường số hóa toàn diện. Đồng thời, năng lực công dân số, tư duy phản biện, sáng tạo và thích ứng nhanh với biến đổi trở thành yêu cầu thiết yếu đối với nguồn nhân lực hiện đại.
Các chính sách hiện hành của Đảng và Nhà nước đang từng bước thể chế hóa những tư tưởng chủ đạo của yêu cầu thực tiễn, làm nền tảng để xây dựng một nền giáo dục mở, linh hoạt, hiện đại và nhân văn. Do vậy, triết lý giáo dục thời đại số không chỉ là định hướng học thuật mà còn là kim chỉ nam cho toàn bộ hệ thống giáo dục trong việc hình thành những thế hệ công dân mới chủ động, sáng tạo và nhân văn.
Nghị quyết 71-NQ/TW mới được ban hành ngày 22/8/2025, đã kế thừa và xác lập một tầm nhìn triết lý mới cho giáo dục Việt Nam trong thời đại số phù hợp với hệ thống mở – liên thông – học tập suốt đời, gắn chặt chuyển đổi số với đổi mới mô hình quản trị, giáo dục đại học là nòng cốt phát triển nhân lực trình độ cao và giáo dục nghề nghiệp là trụ cột hình thành lực lượng lao động kỹ năng, thích ứng nhanh với thị trường.
Do vậy, việc xây dựng và khẳng định một triết lý giáo dục phù hợp với thời đại số là điều cần thiết, nhằm định hướng cho hệ thống chính sách giáo dục - đào tạo phát triển một cách toàn diện, bền vững, hội nhập nhưng vẫn giữ vững bản sắc dân tộc.
Trong những năm gần đây, nhiều văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà nước đã thể hiện rõ các định hướng đổi mới giáo dục phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ chuyển đổi số. Nghị quyết Trung ương 29-NQ/TW (2013) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, Nghị quyết Trung ương 52-NQ/TW (2019) của Bộ Chính trị, các Nghị quyết 29/2021/NQ-CP về chuyển đổi số quốc gia, Đề án 1009/QĐ-TTg năm 2022 về phát triển văn hóa đọc trong cộng đồng giai đoạn 2022-2026 đã đặt nền móng cho triết lý giáo dục thời đại số – một định hướng tư duy mang tính chiến lược để phát triển con người và đất nước trong kỷ nguyên số tại Việt Nam.
Giáo dục Việt Nam mang sứ mệnh “Khai phóng - Nhân bản và Phụng sự”.
Đặc biệt, Nghị quyết 71-NQ/TW ban hành ngày 22/8/2025 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo ra đời trong bối cảnh thực tiễn đất nước vươn mình trong kỷ nguyên mới, có sự đồng bộ với Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24/1/2025 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế trong tình hình mới, bổ sung cho Nghị quyết số 29-NQ/TW và Kết luận số 91-KL/TW ngày 12/8/2024 của Bộ Chính trị về yêu cầu tiếp tục đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đặc biệt trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; đã hình thành nên những tư tưởng chủ đạo của các chính sách của Đảng và Nhà nước về triết lý giáo dục trong thời đại số, làm nền tảng cho một triết lý giáo dục mang tính tiến bộ, nhân văn, hiện đại và thích ứng với thời đại số của nền giáo dục Việt Nam mang sứ mệnh “Khai phóng - Nhân bản và Phụng sự”.
Giáo dục là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển đất nước số trong kỷ nguyên mới
Trong các văn kiện của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, Nghị quyết 71-NQ/TW về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo, tư tưởng “giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, quyết định tương lai dân tộc”, được xác định rõ ràng và nhất quán.
Giáo dục không chỉ là lĩnh vực quan trọng hàng đầu mà còn là nền tảng và động lực phát triển bền vững đất nước, đặc biệt trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và quá trình chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu. Chuyển đổi số quốc gia đòi hỏi nguồn nhân lực có trình độ cao, kỹ năng số, tư duy phản biện và năng lực sáng tạo - những phẩm chất chỉ có thể được hình thành và phát triển thông qua một nền giáo dục tiên tiến, hiện đại và mang tính mở.
Đầu tư cho giáo dục chính là đầu tư cho tương lai.
Do đó, giáo dục giữ vai trò trung tâm trong chiến lược xây dựng đất nước số, xã hội số và công dân số. Đây là chìa khóa để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, rút ngắn khoảng cách phát triển và chủ động hội nhập quốc tế.
Đảng và Nhà nước ta đã và đang ban hành nhiều chính sách ưu tiên phát triển giáo dục thích ứng với thời đại số, thể hiện qua việc đầu tư mạnh mẽ vào hạ tầng công nghệ giáo dục, xây dựng hệ sinh thái học tập số, đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy theo hướng phát triển phẩm chất và năng lực người học.
Việc thúc đẩy chuyển đổi số trong giáo dục không chỉ là ứng dụng công nghệ, mà là đổi mới toàn diện cách dạy, cách học, cách quản lý và đánh giá chất lượng giáo dục. Tư tưởng triết lý giáo dục là quốc sách hàng đầu, trong thời đại số, càng có ý nghĩa chiến lược sâu sắc, không thể có một nền kinh tế số phát triển nếu thiếu một nền giáo dục số tiên tiến. Đầu tư cho giáo dục chính là đầu tư cho tương lai, là cách hiệu quả và bền vững nhất để đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững và bao trùm.
Giáo dục không chỉ là truyền đạt kiến thức mà là phát triển con người toàn diện và lấy người học làm trung tâm
Triết lý giáo dục trong thời đại số nhấn mạnh việc chuyển từ mô hình “dạy để biết” sang “dạy để làm, để chung sống và để phát triển”.
Nghị quyết 29/NQ-TW nêu rõ: “Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học”; Nghị quyết 71-NQ/TW cũng đã đưa triết lý giáo dục con người toàn diện đức, trí, thể, mỹ, giáo dục vì con người và con người là chủ thể của giáo dục.
Trong một thế giới nơi kiến thức thay đổi từng ngày, điều quan trọng không phải là ghi nhớ mà là khả năng học tập, thích ứng và sáng tạo không ngừng. Triết lý giáo dục thời đại số trong các chỉ thị, nghị quyết cũng nhấn mạnh đến văn hóa đọc là một phần không thể thiếu của giáo dục toàn diện.
Giáo dục thời đại số không chỉ là trang bị kỹ năng số, mà còn là nuôi dưỡng tư duy phản biện, khả năng hiểu biết sâu và thái độ học thuật nghiêm túc những điều được hình thành thông qua đọc có chiều sâu. Do vậy, đọc sách không chỉ là một kỹ năng, mà là một giá trị sống nền tảng cho một xã hội tri thức, học tập suốt đời và phát triển bền vững.
Người học không còn là đối tượng tiếp thu tri thức một chiều mà trở thành chủ thể tích cực trong quá trình học tập.
Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư và chuyển đổi số quốc gia, phát triển văn hóa đọc không chỉ là chính sách văn hóa, mà còn là định hướng giáo dục sâu sắc. Đó là giáo dục thông qua đọc, lấy việc đọc làm trung tâm để phát triển năng lực tự học, tự chủ, tự sáng tạo của mỗi người.
Triết lý giáo dục thời đại số được thể hiện rõ nét trong đề án 1009/QĐ-TTg chính là: học để đọc – đọc để hiểu – hiểu để làm chủ chính mình và tương lai. Đó là nền tảng để xây dựng một xã hội học tập, xã hội tri thức, và xã hội số phát triển bền vững.
Chính sách giáo dục hiện nay chuyển mạnh từ truyền đạt kiến thức sang phát triển phẩm chất, năng lực. Học sinh không chỉ học để biết, mà học để làm, học để cùng chung sống và học để tự khẳng định mình trong môi trường số đầy biến động.
Đây là bước chuyển từ giáo dục định hướng nội dung sang giáo dục định hướng năng lực - cốt lõi của triết lý giáo dục hiện đại. Việc lấy người học làm trung tâm không chỉ là định hướng về phương pháp giảng dạy mà còn là kim chỉ nam trong thiết kế chương trình, đổi mới kiểm tra đánh giá, xây dựng môi trường học tập an toàn, thân thiện và sáng tạo.
Đây cũng là tiền đề để hình thành một xã hội học tập, trong đó mỗi cá nhân đều có cơ hội phát triển tối đa tiềm năng của mình, góp phần xây dựng một quốc gia số với nền giáo dục nhân văn, khai phóng và hội nhập.
Triết lý giáo dục hiện đại, đặc biệt trong thời đại số, nhấn mạnh đến việc lấy người học làm trung tâm - một tư tưởng xuyên suốt trong các chính sách giáo dục của Đảng và Nhà nước ta. Trong đó, người học không còn là đối tượng tiếp thu tri thức một chiều mà trở thành chủ thể tích cực trong quá trình học tập, phát triển và tự hoàn thiện.
Song song với việc phát triển năng lực, giáo dục hiện đại thời đại số còn chú trọng bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, lý tưởng sống, tinh thần trách nhiệm với cộng đồng và khả năng thích ứng với sự thay đổi nhanh chóng của xã hội.
Trong thời đại số, khi môi trường học tập trở nên mở, linh hoạt và đa chiều, yêu cầu về phẩm chất công dân toàn cầu, bản lĩnh văn hóa và đạo đức nghề nghiệp càng trở nên cấp thiết.
Giáo dục mở và học tập suốt đời là định hướng chiến lược và là xu thế tất yếu trong thời đại số
Nghị quyết 29-NQ/TW, 52-NQ/TW (2019) nhấn mạnh, với sự hỗ trợ của công nghệ, giáo dục số mở ra cơ hội học tập mọi lúc, mọi nơi. Nghị quyết 71-NQ/TW cũng đã quán triệt chuyển đổi số hệ sinh thái giáo dục: hồ sơ học tập suốt đời, dữ liệu dùng chung, học liệu mở.
Học tập không còn giới hạn trong lớp học truyền thống mà mở rộng đến mọi tầng lớp xã hội, từ học sinh đến người lao động. Triết lý giáo dục thời đại số thúc đẩy xã hội học tập, nơi mỗi công dân đều là người học chủ động, liên tục và có khả năng làm chủ tri thức.
Điều này phản ánh một triết lý học tập mới là giáo dục không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian, và mỗi người dân đều có thể trở thành công dân học tập suốt đời, thông qua các công cụ số. Đây là bước tiến lớn trong việc xóa bỏ rào cản tiếp cận tri thức, đặc biệt với người dân ở vùng sâu, vùng xa.
Chuyển đổi số trong giáo dục là xóa bỏ rào cản về không gian, thời gian và điều kiện kinh tế trong tiếp cận tri thức.
Tư tưởng chỉ đạo của các Nghị quyết TW, các chính sách của Đảng và Nhà nước cũng đã nhấn mạnh việc “phát triển hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời”, điều này phản ánh một triết lý mới: học tập không còn giới hạn trong khuôn khổ nhà trường, cũng không dừng lại ở một giai đoạn nào đó của cuộc đời.
Trong thế giới số, nơi tri thức biến đổi từng ngày, người học cần được trang bị năng lực tự học, học từ nhiều nguồn, học liên tục để không bị tụt lại phía sau.
Chính sách giáo dục hiện hành của Đảng và Nhà nước đã thể hiện rõ định hướng xây dựng xã hội học tập, trong đó mọi người dân, không phân biệt độ tuổi, giới tính, điều kiện kinh tế hay nơi cư trú, đều có cơ hội được học tập suốt đời, tiếp cận với tri thức một cách bình đẳng.
Việc triển khai hệ thống giáo dục mở, linh hoạt, ứng dụng công nghệ số vào dạy và học chính là đòn bẩy quan trọng giúp hiện thực hóa mục tiêu này. Chuyển đổi số trong giáo dục không chỉ là hiện đại hóa công cụ và phương pháp giảng dạy, mà còn là xóa bỏ rào cản về không gian, thời gian và điều kiện kinh tế trong tiếp cận tri thức.
Nhờ đó, người học ở vùng sâu, vùng xa, người lao động, người khuyết tật… đều có thể tham gia học tập thông qua các nền tảng trực tuyến, khóa học mở, tài nguyên giáo dục số và các chương trình học tập từ xa.
Bên cạnh đó, triết lý “học tập suốt đời” cũng được cụ thể hóa trong hệ thống chính sách và quy hoạch phát triển giáo dục quốc gia, như Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2021-2030, với tầm nhìn đến năm 2045. Các chương trình khuyến học, khuyến tài, xây dựng cộng đồng học tập cấp xã, đào tạo lại và nâng cao kỹ năng cho người lao động đang góp phần quan trọng trong việc lan tỏa văn hóa học tập rộng khắp trong toàn xã hội.
Giáo dục là động lực và nền tảng để dẫn dắt chuyển đổi số, gắn với thị trường lao động, đổi mới sáng tạo
Trong thời đại số, giáo dục không thể tách rời thực tế; người học cần được trang bị những kỹ năng ứng dụng công nghệ, tư duy số, làm việc nhóm và sáng tạo, đáp ứng nhu cầu không ngừng biến động của thị trường lao động. Do vậy, giáo dục phải trở thành cầu nối giữa nhà trường, doanh nghiệp và xã hội. Không chỉ là lĩnh vực cần thích ứng, giáo dục trong thời đại số được định vị là trung tâm và động lực của chuyển đổi số quốc gia.
Các NQTW khẳng định cần “ưu tiên phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao” như một trụ cột phát triển. Điều này cho thấy giáo dục không chỉ đi sau mà phải đi trước, dẫn dắt sự phát triển của khoa học công nghệ và kinh tế số. Triết lý giáo dục thời đại số vì thế đặt mục tiêu phát triển những con người sáng tạo, chủ động, có khả năng học hỏi và thích ứng linh hoạt.
Tinh thần Nghị quyết 71-NQ/TW cũng nhắm tập trung đột phá thông qua việc nâng tầm các cơ sở giáo dục đại học thực sự trở thành các trung tâm nghiên cứu, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, khởi nghiệp của quốc gia và của các vùng, tiến đến hội nhập quốc tế; cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho các ngành, lĩnh vực trọng điểm quốc gia và khu vực.
Giáo dục Việt Nam thực sự trở thành các trung tâm nghiên cứu, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, khởi nghiệp của quốc gia và của các vùng, tiến đến hội nhập quốc tế.
Trong bối cảnh việc làm và kỹ năng lao động thay đổi nhanh chóng, triết lý giáo dục thời đại số yêu cầu gắn chặt giáo dục với thực tiễn, thị trường lao động, đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp. Các NQTW cũng đã đề ra nhiệm vụ “khuyến khích đổi mới sáng tạo trong giáo dục” – thể hiện quan điểm: người học không chỉ tiếp nhận tri thức mà còn phải biết tạo ra tri thức mới, biết giải quyết vấn đề và thích ứng với biến động.
Một trong những tư tưởng chủ đạo thể hiện rõ trong các chính sách giáo dục hiện hành là gắn giáo dục với thực tiễn đời sống, nhu cầu của thị trường lao động và quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng. Trong thời đại số, giáo dục không thể đứng ngoài dòng chảy phát triển của nền kinh tế - xã hội, mà cần chủ động thích ứng, dẫn dắt và tạo động lực cho sự đổi mới và phát triển.
Ngoài ra, các chính sách của Đảng và Nhà nước đã nhấn mạnh yêu cầu đổi mới nội dung, chương trình đào tạo theo hướng gắn với yêu cầu thực tiễn, lấy nhu cầu xã hội làm thước đo chất lượng đào tạo, đặc biệt là trong Nghị quyết 71-NQ/TW và các chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2025-2030 và tầm nhìn đến 2045.
Giáo dục không chỉ cung cấp kiến thức hàn lâm, mà cần trang bị cho người học năng lực làm việc thực tế, kỹ năng nghề nghiệp, kỹ năng số, tư duy khởi nghiệp và năng lực thích ứng với sự biến đổi nhanh chóng của thị trường lao động. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế cũng trở thành một yếu tố không thể tách rời trong chiến lược phát triển giáo dục.
Việc xây dựng các chương trình đào tạo song ngữ, liên kết đào tạo quốc tế, công nhận văn bằng giữa các quốc gia và thúc đẩy trao đổi sinh viên, giảng viên… chính là biểu hiện cụ thể của triết lý giáo dục hướng đến công dân toàn cầu - những người có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế, có hiểu biết liên văn hóa, và tôn trọng sự đa dạng.
Đặc biệt, quá trình chuyển đổi số giúp rút ngắn khoảng cách giữa giáo dục và thị trường lao động thông qua các nền tảng kết nối đào tạo - việc làm, mô hình học kết hợp, đào tạo theo chuẩn đầu ra và khung năng lực nghề nghiệp. Nhờ đó, người học có thể dễ dàng cập nhật kiến thức, kỹ năng phù hợp với nhu cầu thị trường và xu hướng phát triển nghề nghiệp trong tương lai.
Liên kết đào tạo quốc tế, công nhận văn bằng giữa các quốc gia và thúc đẩy trao đổi sinh viên, giảng viên.
Tư tưởng “giáo dục gắn với thực tiễn, thị trường lao động và hội nhập quốc tế” chính là lời khẳng định về một nền giáo dục mở, linh hoạt, thích ứng và sáng tạo - nền giáo dục không chỉ phục vụ mục tiêu cá nhân mà còn góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và thúc đẩy tiến trình hiện đại hóa, số hóa đất nước.
Đảm bảo công bằng, dân chủ, hội nhập giáo dục và học tập suốt đời cho mọi người dân và đối tượng yếu thế
Triết lý giáo dục thời đại số không chỉ phục vụ người giỏi, người có điều kiện mà hướng tới bình đẳng trong tiếp cận tri thức, đặc biệt là với học sinh vùng sâu, vùng xa. Nhờ công nghệ, học sinh ở bất cứ đâu cũng có thể tiếp cận chất lượng giáo dục ngang bằng. Đồng thời, giáo dục Việt Nam cần hòa mình vào dòng chảy tri thức toàn cầu nhưng vẫn giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
Một điểm đặc biệt nhân văn trong triết lý giáo dục thời đại số là tinh thần bao trùm và công bằng trong tiếp cận tri thức. Các NQTW yêu cầu phải “thu hẹp khoảng cách số giữa các vùng miền, nhóm dân cư, giới tính”. Công nghệ không chỉ là công cụ mà còn là cơ hội để mọi người, dù ở thành thị hay nông thôn, đều có thể học tập, phát triển bản thân và đóng góp vào sự phát triển chung, “Bảo đảm mọi người dân đều được tiếp cận các nền tảng giáo dục số một cách bình đẳng".
Môi trường học tập công bằng, dễ tiếp cận cho mọi đối tượng, nhất là nhóm yếu thế.
Triết lý giáo dục thời đại số không bỏ ai lại phía sau; việc số hóa giáo dục không chỉ dành cho người có điều kiện, mà phải bảo đảm môi trường học tập công bằng, dễ tiếp cận cho mọi đối tượng, nhất là nhóm yếu thế. Triết lý giáo dục trong thời đại số nhấn mạnh giáo dục không còn là trách nhiệm riêng của nhà trường, mà là kết quả của sự liên kết giữa các chủ thể trong xã hội, nhằm phát triển năng lực thực tế, đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động số.
Chuyển đổi số là động lực và là phương thức đổi mới căn bản toàn diện giáo dục đào tạo
Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và sự phát triển nhanh chóng của khoa học - công nghệ, Đảng và Nhà nước xác định chuyển đổi số không chỉ là một xu hướng tất yếu mà còn là động lực quan trọng và là phương thức đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Tư tưởng này được thể hiện rõ trong nhiều văn kiện chính sách quan trọng, như Nghị quyết số 52-NQ/TW về chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Chương trình chuyển đổi số quốc gia, và Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2021-2030, Nghị quyết 71-NQ/TW về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo.
Chuyển đổi số trong giáo dục không đơn thuần là việc số hóa tài liệu hay triển khai dạy học trực tuyến, mà là một quá trình cải cách sâu rộng từ triết lý giáo dục, mục tiêu đào tạo đến nội dung, phương pháp giảng dạy, quản trị nhà trường và mô hình tổ chức giáo dục. Đây là sự thay đổi toàn diện để thích ứng với nhu cầu học tập đa dạng, linh hoạt và cá nhân hóa trong thời đại số.
Nhờ ứng dụng công nghệ số, người học có thể tiếp cận tri thức mọi lúc, mọi nơi thông qua các nền tảng học tập trực tuyến, thư viện số, hệ thống học liệu mở. Giáo viên chuyển từ vai trò “truyền thụ kiến thức” sang “người hướng dẫn, hỗ trợ học tập”, giúp học sinh phát triển tư duy phản biện, sáng tạo và năng lực tự học suốt đời.
Các chính sách hiện hành đang từng bước tạo hành lang pháp lý và nguồn lực để thúc đẩy chuyển đổi số giáo dục.
Đồng thời, chuyển đổi số cũng giúp quản lý giáo dục trở nên minh bạch, hiệu quả và dựa trên dữ liệu, từ đó nâng cao chất lượng toàn hệ thống. Các chính sách hiện hành đang từng bước tạo hành lang pháp lý và nguồn lực để thúc đẩy chuyển đổi số giáo dục: phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ, bồi dưỡng năng lực số cho đội ngũ nhà giáo, xây dựng kho học liệu số, và đặc biệt là đảm bảo an toàn, bình đẳng trong tiếp cận công nghệ cho mọi đối tượng học sinh - bao gồm học sinh vùng sâu, vùng xa, người yếu thế.
Tư tưởng "chuyển đổi số là động lực và phương thức đổi mới căn bản giáo dục" không chỉ phản ánh quyết tâm của Đảng và Nhà nước trong quá trình hiện đại hóa giáo dục, mà còn thể hiện một triết lý sâu sắc: giáo dục cần song hành với đổi mới công nghệ để nâng tầm con người Việt Nam trong kỷ nguyên số - thông minh hơn, sáng tạo hơn, và hội nhập hơn.
Xây dựng nền giáo dục mở, linh hoạt, chất lượng cao và có khả năng thích ứng trong thời đại số
Trong thời đại số - thời đại của tri thức, kết nối và biến đổi không ngừng - Đảng và Nhà nước đã xác định rõ yêu cầu cấp thiết là phải xây dựng một nền giáo dục mở, linh hoạt, chất lượng cao và có khả năng thích ứng với mọi hoàn cảnh, mọi đối tượng và mọi trình độ phát triển. Đây không chỉ là xu thế phát triển toàn cầu mà còn là sự lựa chọn mang tính chiến lược để thực hiện triết lý giáo dục tiến bộ, nhân văn và hiện đại.
Giáo dục mở là nền giáo dục trao quyền học tập cho mọi người, không giới hạn bởi độ tuổi, thời gian, không gian hay hình thức học. Chính sách hiện hành đã khuyến khích phát triển các mô hình học tập linh hoạt như đào tạo trực tuyến, đào tạo từ xa, học tập qua trải nghiệm thực tiễn, công nhận kết quả học tập không chính quy, phi chính quy.
Tư tưởng này nhằm tạo ra một hệ sinh thái học tập rộng lớn, nơi mỗi người có thể học tập suốt đời, tự chủ lựa chọn nội dung, phương thức và tiến độ học phù hợp với điều kiện của bản thân.
Mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục luôn được đặt ở vị trí trung tâm trong mọi chính sách.
Tính linh hoạt còn thể hiện ở việc đa dạng hóa chương trình đào tạo, liên thông giữa các bậc học, các trình độ giáo dục, cũng như giữa giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học. Điều này giúp người học dễ dàng chuyển đổi định hướng nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu thay đổi nhanh chóng của thị trường lao động và nền kinh tế số.
Song song với đó, mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục luôn được đặt ở vị trí trung tâm trong mọi chính sách. Đổi mới kiểm tra đánh giá, phát triển đội ngũ giáo viên theo chuẩn nghề nghiệp, tăng cường tự chủ đại học, kiểm định chất lượng độc lập, ứng dụng công nghệ trong dạy - học - quản lý... là những bước đi quan trọng nhằm đảm bảo chất lượng đầu ra, đáp ứng các chuẩn mực trong nước và quốc tế.
Khả năng thích ứng - một yếu tố sống còn trong thế giới liên tục biến động - được xem là năng lực cốt lõi mà nền giáo dục hiện đại phải tạo dựng cho người học. Tư tưởng này đòi hỏi giáo dục không chỉ truyền thụ kiến thức mà còn phải rèn luyện cho người học năng lực giải quyết vấn đề, thích nghi với thay đổi, sáng tạo trong tư duy và hành động.
Như vậy, xây dựng nền giáo dục mở, linh hoạt, chất lượng cao và có khả năng thích ứng chính là biểu hiện sinh động của triết lý giáo dục lấy con người làm trung tâm, đồng thời phản ánh tư duy hiện đại của Đảng và Nhà nước trong việc đưa giáo dục trở thành trụ cột của phát triển bền vững, đổi mới sáng tạo và hội nhập quốc tế sâu rộng trong thời đại số.
Trong bối cảnh xã hội đang bước vào kỷ nguyên số, với sự bùng nổ mạnh mẽ của công nghệ thông tin và truyền thông, triết lý giáo dục trong thời đại số đã trở thành một yêu cầu không thể thiếu để đảm bảo sự phát triển bền vững của đất nước.
Đảng và Nhà nước ta đã có những nghị quyết, những chiến lược và chính sách giáo dục rõ ràng và đồng bộ, khẳng định vai trò then chốt của giáo dục trong việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đồng thời góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia trong nền kinh tế toàn cầu.
Nghị quyết 71-NQ/TW không chỉ củng cố nền tảng triết lý “giáo dục mở – số hóa – liên thông – lấy người học làm trung tâm” mà còn đặt ra cơ chế thực thi: trao quyền có điều kiện (tự chủ) và giải trình bằng dữ liệu và kiểm định. Đây là con đường để hệ thống giáo dục Việt Nam vừa giữ bản sắc, vừa hội nhập sâu, nâng cao năng lực cạnh tranh trong kỷ nguyên số.
Triết lý giáo dục trong thời đại số đã trở thành một yêu cầu không thể thiếu để đảm bảo sự phát triển bền vững của đất nước.
Các tư tưởng chủ đạo trong chính sách giáo dục hiện hành thể hiện sự quyết tâm đổi mới mạnh mẽ trong tất cả các lĩnh vực của giáo dục: từ xây dựng nền giáo dục mở, linh hoạt và chất lượng cao, đến gắn giáo dục với thực tiễn và nhu cầu của thị trường lao động, từ thúc đẩy công bằng trong tiếp cận giáo dục, đến chuyển đổi số như động lực và phương thức đổi mới căn bản giáo dục.
Những tư tưởng này không chỉ phản ánh tầm nhìn chiến lược của Đảng và Nhà nước mà còn là sự xác định đúng đắn nền tảng lý luận và triết lý sâu sắc về vai trò của giáo dục trong việc phát triển con người - nguồn tài nguyên quý giá nhất trong kỷ nguyên số.
Tuy nhiên, để triết lý giáo dục trong thời đại số thực sự đi vào cuộc sống và đạt được hiệu quả, cần phải có những nỗ lực không ngừng trong việc triển khai đồng bộ các Nghị quyết – chính sách của Đảng và Nhà nước, các giải pháp từ đầu tư vào cơ sở hạ tầng công nghệ, đào tạo đội ngũ giáo viên có năng lực số, xây dựng các chương trình giáo dục linh hoạt và đáp ứng nhu cầu thay đổi nhanh chóng của thị trường lao động.
Bên cạnh đó, cũng cần đặc biệt chú trọng đảm bảo công bằng trong tiếp cận giáo dục cho tất cả mọi đối tượng học sinh, sinh viên, người lao động chưa thông qua đào tạo nhằm không để ai bị bỏ lại phía sau trong sự chuyển mình mạnh mẽ của đất nước trong kỷ nguyên mới.
Triết lý giáo dục trong thời đại số sẽ là nền tảng vững chắc để xây dựng một xã hội học tập, một đất nước phát triển toàn diện, công bằng, văn minh và thịnh vượng.
Triết lý giáo dục trong kỷ nguyên số: Tầm nhìn thời đại của Nghị quyết 71-NQ/TW
(CLO) Nghị quyết 71-NQ/TW tiếp nối và xác lập tầm nhìn triết lý mới: hệ thống mở – liên thông – học tập suốt đời gắn chặt chuyển đổi số với đổi mới quản trị; định vị giáo dục đại học là nòng cốt phát triển nhân lực trình độ cao, giáo dục nghề nghiệp là trụ cột hình thành lực lượng lao động kỹ năng gắn với thị trường.
2025-09-12 14:55
Phát động Cuộc thi vẽ tranh về bảo vệ môi trường trong học đường
GD&TĐ - Sáng 12/9, Tạp chí điện tử Môi trường và Cuộc sống tổ chức lễ phát động Cuộc thi vẽ tranh về bảo vệ môi trường trong học đường lần thứ II.
2025-09-12 14:55
301 học sinh Tuyên Quang trở lại trường học sau khi khắc phục hậu quả mưa lũ
GD&TĐ - Ngày 12/9, 301 học sinh Trường PTDTBT Tiểu học &THCS Thàng Tín (Tuyên Quang) trở lại trường sau 2 ngày nghỉ do ảnh hưởng do mưa lũ.
2025-09-12 14:54
Bộ Y tế quyết không để ‘bánh trung thu bẩn’ đầu độc người dân
(CLO) Bộ Y tế yêu cầu kiểm tra gắt gao các cơ sở sản xuất, kinh doanh bánh trung thu và thực phẩm dịp lễ, quyết không để hàng kém chất lượng “đầu độc” người tiêu dùng.
2025-09-12 14:54
Trường đại học Việt Nam được vinh danh thành tựu xuất sắc đổi mới AI
GD&TĐ - Hội nghị thường niên lần thứ 13 của Coursera tại Mỹ, Trường ĐH FPT được vinh danh có thành tựu xuất sắc về đổi mới sáng tạo trong ứng dụng AI.
2025-09-12 14:52
Nhiều chỉ tiêu về giáo dục hoàn thành vượt mức trong xây dựng nông thôn mới
GD&TĐ - Ngành GD&ĐT có vai trò then chốt trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, góp phần đạt các tiêu chí nông thôn mới.
2025-09-12 14:52
Trường THPT Tây Hà Nội chính thức đổi tên thành Trường THPT FPT Tây Hà Nội
GD&TĐ - UBND TP Hà Nội ban hành Quyết định về việc cho phép đổi tên Trường Trung học phổ thông Tây Hà Nội thành Trường Trung học phổ thông FPT Tây Hà Nội.
2025-09-12 14:51
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên TPHCM vinh danh 3 thủ khoa tại lễ khai giảng
GD&TĐ - Ba thủ khoa đầu vào Trường Đại học Khoa học Tự nhiên (Đại học Quốc gia TPHCM) có thành tích xuất sắc với điểm trúng tuyển gần tuyệt đối.
2025-09-12 14:50
Bộ sách giáo khoa thống nhất toàn quốc: Lấy người học làm trung tâm
GD&TĐ - Nhà giáo Nguyễn Văn Ngai cho rằng, một bộ sách giáo khoa dùng chung hướng đến mục tiêu phát triển căn bản, toàn diện ngành giáo dục.
2025-09-12 14:49
TP HCM: Phanh phui hàng loạt vi phạm trong kinh doanh dược, mỹ phẩm, thiết bị y tế
(CLO) Sở Y tế TP HCM cho biết, từ đầu năm 2025 đến nay, đơn vị đã kiểm tra 74 cơ sở kinh doanh dược thì có tới 59 cơ sở vi phạm, chiếm hơn 80% với tổng số tiền xử phạt hơn 1,5 tỉ đồng.
Triết lý giáo dục trong kỷ nguyên số: Tầm nhìn thời đại của Nghị quyết 71-NQ/TW